Tâm ý đã thanh tịnh, chánh niệm đã đạt, không còn vướng vào một tham dục nào nữa, vị A La Hán qua được vượt sâu u mê như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ.
Kinh Vị La Hán
Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng
Kinh thứ 15
Phẩm này có 11 bài tụng. La Hán là bậc đã được giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy, đáng được mọi người tôn kính. Tiếng Pali là arahanta. Bài kệ thứ tư tả vị La Hán như con chim trở về hư không, cao bay vô ngại. Bài thứ 7 nói vị La Hán bình tĩnh như đất, bất động như núi. Bài thứ 2 ví vị La Hán như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ. Bài thứ 10 nói nơi đâu có một vị A La Hán thì nơi ấy trở nên mát mẻ linh thiêng. Bài thứ nhất định nghĩa vị A La Hán là người đã lìa bỏ mọi ưu tư hoạn nạn, thoát ra ngoài mọi hệ lụy, tháo tung được mọi sợi dây ràng buộc, đạt tới sự mát mẻ (Niết bàn), không còn bị các cơn sốt phiền não thiêu đốt.
Bài kệ 1
Khứ ly ưu hoạn 去 離 憂 患
Thoát ư nhất thiết 脫 於 一 切
Phược kết dĩ giải 縛 結 已 解
Lãnh nhi vô noãn 冷 而 無 煖
Lìa bỏ mọi ưu tư hoạn nạn, thoát ra ngoài mọi hệ lụy, tất cả các sợi dây ràng buộc đều đã được tháo tung, mát mẻ, không còn bị một cơn sốt não phiền nào đốt cháy nữa.
Bài kệ 2
Tâm tịnh đắc niệm 心 淨 得 念
Vô sở tham lạc 無 所 貪 樂
Dĩ độ si uyên 已 度 癡 淵
Như nhạn khí trì 如 鴈 棄 池
Tâm ý đã thanh tịnh, chánh niệm đã đạt, không còn vướng vào một tham dục nào nữa, vị A la hán đã qua được vực sâu u mê như con thiên nga đã rời bỏ chiếc hồ.
Bài kệ 3
Lượng phước nhi thực 量 腹 而 食
Vô sở tạng tích 無 所 藏 積
Tâm không vô tưởng 心 空 無 想
Độ chúng hành địa 度 眾 行 地
Ăn uống chừng mực, không chất chứa của cải, tâm ý rỗng rang không còn vọng tưởng, vượt qua được mọi hành và mọi địa.
Bài kệ 4
Như không trung điểu 如 空 中 鳥
Viễn thệ vô ngại 遠 逝 無 礙
Thế gian tập tận 世 間 習 盡
Bất phục ngưỡng thực 不 復 仰 食
Như con chim bay về hư không, cao bay vô ngại, các tập khí thế gian đã chấm dứt, không còn lo lắng về chuyện ăn uống.
Bài kệ 5
Hư tâm vô hoạn 虛 心 無 患
Dĩ đáo thoát xứ 已 到 脫 處
Thí như phi điểu 譬 如 飛 鳥
Tạm hạ triếp thệ 暫 下 輒 逝
Tâm ý thảnh thơi, không còn hoạn nạn, đã tới được chốn giải thoát như con chim bay tạm thời đáp xuống mà đi.
Bài kệ 6
Chế căn tùng chỉ 制 根 從 止
Như mã điều ngự 如 馬 調 御
Xả kiêu mạn tập 捨 憍 慢 習
Vi thiên sở kính 為 天 所 敬
Điều phục các căn, làm cho an tĩnh như con ngựa hay, buông bỏ được mọi tập khí kiêu mạn, cả chư thiên cũng phải kính ngưỡng.
Bài kệ 7
Bất nộ như địa 不 怒 如 地
Bất động như sơn 不 動 如 山
Chân nhân vô cấu 真 人 無 垢
Sanh tử thế tuyệt 生 死 世 絕
Không giận, bình tĩnh như đất, bất động như núi, đã là vị chân nhân thì không còn bị cấu nhiễm,vì sinh tử và thời gian đã chấm dứt.
Bài kệ 8
Tâm dĩ hưu tức 心 已 休 息
Ngôn hành diệc chánh 言 行 亦 正
Tùng chánh giải thoát 從 正 解 脫
Tịch nhiên quy diệt 寂 然 歸 滅
Tâm tư ngưng nghỉ, ngôn và hành cũng thế, đi theo con đường chánh đạo, đã được giải thoát, yên lặng và trở về Niết Bàn.
Bài kệ 9
Khí dục vô khán 棄 欲 無 着
Khuyết tam giới chướng 缺 三 界 障
Vọng ý dĩ tuyệt 望 意 已 絕
Thị vị thượng nhân 是 謂 上 人
Buông bỏ tham dục, không còn dính mắc, vượt mọi chướng ngại ba cõi, vọng tâm đã hết, đó là một bậc thượng nhân.
Bài kệ 10
Tại tụ nhược dã 在 聚 若 野
Bình địa cao ngạn 平 地 高 岸
Ưng chân sở quá 應 真 所 過
Mạc bất mông hữu 莫 不 蒙 祐
Nơi đồng quê hay ở chốn xóm làng, dưới bình nguyên hay trên cao nguyên, địa phương nào có các vị ấy đi tới đều trở nên linh thiêng.
Bài kệ 11
Bỉ lạc không nhàn 彼 樂 空 閑
Chúng nhân bất năng 眾 人 不 能
Khoái tai vô vọng 快 哉 無 望
Vô sở dục cầu 無 所 欲 求
Ưa những nơi nhàn vắng, ít người lui tới, hạnh phúc thay khi đã đạt tới trình độ không còn vọng động, không còn mong cầu.