Kinh Con Đường

Thể loại: Tàng kinh

Kinh Con Đường

Không có con đường đưa tới hạnh phúc. Hạnh phúc chính là con đường.

Không có con đường đưa tới niết bàn. Niết bàn chính là con đường.

Đạo Hành Phẩm Pháp Cú Kinh đệ nhị thập bát

道行品法句經第二十八

Kinh Con Đường

Dịch từ kinh Pháp Cú trong Hán tạng

Kinh thứ 28

Phẩm này có 28 bài kệ. Đạo ở đây là đường đạo (magga). Bài kệ thứ nhất nói ngay rằng Bát chánh đạo là con đường tối thượng và Tứ đế là dấu ấn của chánh pháp. Đã được đi trên con đường này thì mình không còn lý do gì phải e ngại và sợ hãi nữa. Đó là nội dung bài thứ 2. Ở Làng Mai ai cũng biết câu: “Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ.” Câu này được trích từ ‘‘Bài tụng hạnh phúc’’ trong sách Nhật Tụng Thiền Môn.

Bài thứ 7 nhắc rằng chánh niệm là trái tim của sự thực tập. Có chánh niệm thì tà niệm được nhận diện, không còn phát khởi. Chánh niệm thành công sẽ đem tới sự thành công của 7 chi phần khác trong Bát chánh đạo.

Bài 17 dạy rằng sự nghiệp lớn lao nhất là trí tuệ. Đây cũng là một trong tám điều mà các bậc giác ngộ đã đạt tới trong kinh Bát Đại Nhân Giác (Duy tuệ thị nghiệp: sự nghiệp duy nhất là trí tuệ). Các bài 19, 20 và 21 nói tới ba pháp ấn là khổ, không và vô ngã. Bài thứ 23 nhắc lại câu nói của Bụt vào giờ phút thành đạo: người xây cất nhà tù cho ta không còn.

Ba phép quán niệm nói tới trong bài kệ thứ 26 có thể là ba phép quán niệm về vô thường, không và vô ngã; cũng có thể là ba phép tùy niệm: niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Bài thứ 28 nói tiếp về phép tùy niệm thứ tư là niệm Giới. Ba định nói trong bài kệ thứ 27 có thể là không, vô tướng và vô tác, còn gọi là ba cánh cửa giải thoát. Ba chữ hành vô lượng có thể là hành trì bốn vô lượng tâm tức là từ, bi, hỷ và xả; cũng có thể có nghĩa là đạt tới chỗ cao nhất của chứng ngộ. Câu ‘‘đắc tam tam quật trừ’’ trong nguyên văn có thể được hiểu là đạt tới ba định ấy thì giải thoát được ba cõi dục, sắc và vô sắc; hoặc thoát được ba con đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Chữ khuất hay quật (tam khuất) có nghĩa là hang động.

Bài kệ 1

Bát trực tối thượng đạo                  八  直  最  上  道

Tứ đế vi Pháp tích                          四  諦  為  法  迹

Bất dâm hành chi tôn                      不  婬  行  之  尊

Thí đăng tất đắc nhãn                     施  燈  必  得  眼

Bát chánh là con đường tối thượng. Tứ đế là dấu tích của Pháp. Nếp sống tịnh hạnh là đáng tôn kính nhất. Cúng dường đèn thì sẽ được pháp nhãn (có ánh sáng).

Bài kệ 2

Thị đạo vô phục úy                          是  道  無  復  畏

Kiến tịnh nãi độ thế                          見  淨  乃  度  世

Thử năng hoại ma binh                    此  能  壞  魔  兵

Lực hành diệt tà khổ                       力  行  滅  邪  苦

Được đi trên con đường này rồi thì không còn phải lo sợ nữa. Được thanh tịnh hóa rồi thì mới có thể độ đời. Đạo pháp này có thể đánh bại ma quân, tận lực hành trì theo đây thì sẽ diệt được mọi tà khổ.

Bài kệ 3

Ngã dĩ khai chánh đạo                   我  已  開  正  道

Vi đại hiện dị minh                         為  大  現  異  明

Dĩ văn đương tự hành                   已  聞  當  自  行

Hành nãi giải tà phược                   行  乃  解  邪  縛

Ta đã mở được con đường chánh đạo. Đó là một sự biểu hiện vĩ đại, sáng chói dị thường. Đã có cơ duyên nghe được thì phải tự mình hành trì, hành trì thì cởi bỏ được những dây ràng buộc tà quấy.

Bài kệ 4

Sanh tử phi thường khổ                 生  死  非  常  苦

Năng quán kiến vi tuệ                    能  觀  見  為  慧

Dục ly nhất thiết khổ                     欲  離  一  切  苦

Hành đạo nhất thiết trừ                行  道  一  切  除

Sinh tử là cái khổ phi thường, có khả năng quán chiếu và thấy được thì đạt được tuệ giác. Nếu muốn lìa bỏ tất cả các khổ đau thì phải chuyên cần hành đạo.

Bài kệ 5

Sanh tử phi thường không             生  死  非  常  空

Năng quán kiến vi tuệ                    能  觀  見  為  慧

Dục ly nhất thiết khổ                     欲  離  一  切  苦

Đãn đương cần hành đạo             但  當  勤  行  道

Sinh tử là cái không phi thường, có khả năng quán chiếu và thấy được thì đạt tới tuệ giác. Nếu muốn lìa bỏ tất cả các khổ đau thì phải chuyên cần hành đạo.

Bài kệ 6

Khởi thời đương tức khởi                 起  時  當  即  起

Mạc như ngu phú uyên                     莫  如  愚  覆  淵

Dữ đọa dữ chiêm tụ                         與  墮  與  瞻  聚

Kế bãi bất tiến đạo                          計  罷  不  進  道

Tới giờ thức dậy thì phải dậy, đừng như bọn ngu phu cứ muốn che lấp vực sâu, sống đời sa đọa không có dũng khí; sợ mệt thì không thể đi tới được trên con đường đạo.

Bài kệ 7

Niệm ưng niệm tắc chánh               念  應  念  則  正

Niệm bất ưng tức tà                        念  不  應  則  邪

Tuệ nhi bất khởi tà                          慧  而  不  起  邪

Tư chánh đạo nãi thành                   思  正  道  乃  成

Khi nhớ nghĩ thì phải sử dụng chánh niệm, không thể là tà niệm. Có tuệ thì tà niệm không khởi, không có chánh niệm thì tà niệm mới khởi. Phải thực tập tư duy về (bát) chánh đạo thì mới thành tựu được (công phu).

Bài kệ 8

Thận ngôn thủ ý niệm                    慎  言  守  意  念

Thân bất thiện bất hành                 身  不  善  不  行

Như thị tam hành trừ                     如  是  三  行  除

Phật thuyết thị đắc đạo                  佛  說  是  得  道

Nói năng phải thận trọng, giữ ý cho chánh niệm, cái gì bất thiện thì thân mình không làm, như vậy ba nghiệp được thanh trừ. Bụt nói, nếu được như thế là ta đã nắm được đạo lý.

Bài kệ 9

Đoạn thọ vô phạt bổn                      斷  樹  無  伐  本

Căn tại do phục sanh                      根  在  猶  復  生

Trừ căn nãi vô thọ                           除  根  乃  無  樹

Tỳ-kheo đắc nê hoàn                      比  丘  得  泥  洹

Chặt cây không bứng gốc, rễ lại mọc thành cây, bứng gốc mới hết cây, do đó vị Tỳ-kheo chứng đắc được Niết Bàn.

Bài kệ 10

Bất năng đoạn thọ                          不  能  斷  樹

Thân thích tướng luyến                   親  戚  相  戀

Tham ý tự phược                           貪  意  自  縛

Như độc mộ nhũ                             如  犢  慕  乳

Nếu không đốn được cây (ái dục), nếu vẫn còn vướng bận trong lòng luyến ái thân thuộc, nếu còn tự trói mình bằng dục ý thì cũng vẫn như một con bê con suốt ngày quanh quẩn bên vú mẹ.

Bài k 11

Năng đoạn ý bổn                             能  斷  意  本

Sanh tử vô cường                           生  死  無  彊

Thị vi cận đạo                                 是  為  近  道

Tật đắc nê hoàn                              疾  得  泥  洹

Có khả năng cắt đứt được gốc (của dục ý) thì lãnh thổ của sinh tử không còn. Sự thực tập này đưa mình tới gần đạo, chứng đạt Niết Bàn.

Bài kệ 12

Tham dâm trí lão                            貪  婬  致  老

Sân khuể trí bệnh                           瞋  恚  致  病

Ngu si trí tử                                    愚  癡  致  死

Trừ tam đắc đạo                             除  三  得  道

Tham dục đem tới cái già, sân nhuế đem tới cái bệnh, si mê đem tới cái chết; trừ diệt được ba cái ấy thì đắc đạo.

Bài kệ 13

Thích tiền giải hậu                           釋  前  解  後

Thoát trung độ bỉ                            脫  中  度  彼

Nhất thiết niệm diệt                          一  切  念  滅

Vô phục lão tử                                無  復  老  死

Chú thích xong mới nên bình giảng, tự độ thoát rồi mới độ thoát cho người khác; một khi tất cả các (tà) niệm đều đã diệt trừ thì không còn lão tử nữa.

Bài kệ 14

Nhân doanh thê tử                         人  營  妻  子

Bất quán bệnh pháp                        不  觀  病  法

Tử mạng tốt chí                              死  命  卒  至

Như thủy thoan sậu                          如  水  湍  驟

Con người bận lo âu việc vợ con, không có thời giờ quán chiếu pháp môn điều trị bệnh (khổ), khi cái chết đến thì cũng giống như nước lụt, nó cuốn trôi đi tất cả một cách mau chóng.

Bài kệ 15

Phụ tử bất cứu                               父  子  不  救

Dư thân hà vọng                             餘  親  何  望

Mạng tận hỗ thân                           命  盡  怙  親

Như manh thủ đăng                        如  盲  守  燈

Cha con mà còn không cứu được nhau thì làm sao cứu được thân tộc? Khi mạng hết, cầu cứu và đến nương tựa vào một người thân để khỏi chết thì cũng như một người mù đang cầm đèn.

Bài kệ 16

Tuệ giải thị ý                                  慧  解  是  意

Khả tu kinh giới                              可  修  經  戒

Cần hành độ thế                             勤  行  度  世

Nhất thiết trừ khổ                           一  切  除  苦

Tâm ý biết đi theo tuệ giải, có khả năng tu tập, biết đọc kinh, trì giới, siêng năng tu học và độ đời thì ai cũng có thể diệt trừ được khổ đau.

Bài kệ 17

Viễn ly chư uyên                             遠  離  諸  淵

Như phong khước vân                      如  風  却  雲

Dĩ diệt tư tưởng                              已  滅  思  想

Thị vi tri kiến                                  是  為  知  見

Xa lìa các dòng lũ lụt, như gió thổi tan mây, biết diệt trừ các vọng tưởng thì sẽ đạt tới tri kiến chân chính.

Bài kệ 18

Trí vi thế trường                              智  為  世  長

Đàm lạc vô vi                                  惔  樂  無  為

Tri thọ chánh giáo                            知  受  正  教

Sanh tử đắc tận                              生  死  得  盡

Xem trí tuệ là sự nghiệp quan trọng nhất trong đời, biết thờ ơ với dục lạc, biết thực tập vô vi, biết tiếp nhận chánh giáo thì có thể chấm dứt được sinh tử.

Bài kệ 19

Tri chúng hành không                      知  眾  行  空

Thị vi tuệ kiến                                 是  為  慧  見

Bãi yếm thế khổ                              罷  厭  世  苦

Tùng thị đạo trừ                             從  是  道  除

Biết được các hành là không, đó là tuệ giác, biết nhàm chán khổ đau của cuộc đời thì sẽ tìm ra được con đường diệt trừ đau khổ.

Bài kệ 20

Tri chúng hành khổ                          知  眾  行  苦

Thị vi tuệ kiến                                 是  為  慧  見

Bãi yếm thế khổ                             罷  厭  世  苦

Tùng thị đạo trừ                             從  是  道  除

Biết được các hành là khổ, đó là tuệ kiến, có tâm ý chấm dứt khổ đau trong cuộc đời thì sẽ tìm ra được con đường diệt trừ đau khổ.

Bài kệ 21

Chúng hành phi thân                       眾  行  非  身

Thị vi tuệ kiến                                 是  為  慧  見

Bãi yếm thế khổ                             罷  厭  世  苦

Tùng thị đạo trừ                             從  是  道  除

Biết được các hành là vô ngã (phi thân), đó là tuệ giác, có tâm ý chấm dứt đau khổ trong cuộc đời thì sẽ tìm ra được con đường diệt trừ đau khổ.

Bài kệ 22

Ngô ngữ nhữ Pháp                         吾  語  汝  法

Ái tiến vi xạ                                    愛  箭  為  射

Nghi dĩ tự húc                                宜  以  自  勗

Thọ Như Lai ngôn                         受  如  來  言

Tôi nói cho quý vị nghe về các phép tu ấy để quý vị có thể sử dụng mà bắn rơi mũi tên ái dục. Các vị nên tự mình khích lệ và tiếp nhận lời dạy ấy của Như Lai.

Bài k 23

Ngô vi đô dĩ diệt                             吾  為  都  以  滅

Vãng lai sanh tử tận                        往  來  生  死  盡

Phi nhất tình dĩ giải                         非  一  情  以  解

Sở diễn vi đạo nhãn                        所  演  為  道  眼

Người xây cất nhà tù cho ta không còn. Chuyện qua lại trong cõi sinh tử do đó cũng đã chấm dứt. Không có sợi dây ràng buộc nào mà chưa được mở ra. Những gì được diễn bày ra đều phát xuất từ con mắt đạo.

Bài kệ 24

Sử lưu chú vu hải                           駛  流  澍  于  海

Phan thủy dạng tật mãn                 潘  水  漾  疾  滿

Cố vi trí giả thuyết                          故  為  智  者  說

Khả thú phục cam lộ                      可  趣  服  甘  露

Sông chảy ra biển, các dòng nước đã đầy, giáo pháp này đã vì các bậc trí giả mà được nói lên, (ai tiếp nhận được) sẽ có khả năng nếm được vị cam lộ.

Bài kệ 25

Tiền vị văn Pháp luân                     前  未  聞  法  輪

Chuyển vi ai chúng sanh                 轉  為  哀  眾  生

Ư thị phụng sự giả                         於  是  奉  事  者

Lễ chi độ tam hữu                          禮  之  度  三  有

Trước chưa từng được nghe ai chuyển pháp luân. Sở dĩ có chuyển cũng vì thương chúng sinh, những ai biết nghe theo thì có thể vượt được tam hữu.

Bài kệ 26

Tam niệm khả niệm thiện                三  念  可  念  善

Tam diệc nan bất thiện                   三  亦  難  不  善

Tùng niệm nhi hữu hành                 從  念  而  有  行

Diệt chi vi chánh đoạn                    滅  之  為  正  斷

Nếu thực tập được ba phép niệm thì rất tốt, bởi vì ba phép này có thể giúp ta thoát khỏi con đường bất thiện. Từ niệm mà có hành, chấm dứt được cái bất thiện là Niết Bàn chân chính.

Bài kệ 27

Tam định vi chuyển niệm                三  定  為  轉  念

Khí y hành vô lượng                       棄  猗  行  無  量

Đắc tam tam quật trừ                    得  三  三  窟  除

Giải kết khả ưng niệm                    解  結  可  應  念

Tam định là để chuyển niệm, buông bỏ cái rườm rà bên ngoài để thực hành vô lượng tâm (dũng mãnh đạt tới đạo vô thượng). Ba định trừ diệt được ba cõi, muốn cởi bỏ nội kết phải thực tập (ba định) này.

Bài kệ 28

Tri dĩ giới cấm ác                           知  以  戒  禁  惡

Tư tánh tuệ lạc niệm                      思  惟  慧  樂  念

Dĩ tri thế thành bại                         已  知  世  成  敗

Tức ý nhất thiết giải                      息  意  一  切  解

Biết sử dụng giới luật để ngăn cản tội lỗi, biết tư duy thiền tập để đạt tới an lạc, trí tuệ và chánh niệm. Đã biết được bản chất của cái thành bại trong cuộc đời, dừng được sự rong ruổi của tâm ý thì tất cả mọi hệ lụy đều được giải thoát.