Sám pháp địa xúc

Sám pháp địa xúc

Thể loại: Sách

( Nếu có điều kiện mong quý vị đọc tác phẩm bằng sách in )

Sám pháp địa xúc

“Sơn hạ hữu tuyền, trạc chi tắc dũ” (Dưới chân núi có dòng suối, lấy nước ấy mà rửa thì sẽ lành bệnh). Nước suối này là nước từ bi, có công năng tiêu diệt tội chướng trong quá khứ để làm cho niềm vui sống có cơ hội trở về. Đó là nguyên ủy của một sám pháp do thầy Tri Huyền tức Quốc sư Ngộ Đạt đời Đường sáng tác, thường gọi là Thủy Sám, hoặc Từ Bi Sám, hay Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp. Ý niệm chính của Sám Pháp là nước từ bi. Từ bi cũng là phép quán. Đó là Từ quán và Bi quán đã được nhắc tới trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa. Để tâm chuyên chú vào Từ và vào Bi làm cho năng lượng của từ bi được chế tác và lớn mạnh, đó là phép quán, đó là niệm lực và định lực. Niệm lực và định lực ấy là tam muội. Cho nên gọi là Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp. Sự thực tập niệm định về từ bi làm lưu lộ ra dòng nước từ bi có khả năng tiêu trừ mọi tội chướng. Phép sám của Quốc sư Ngộ Đạt là phép sám sử dụng nước tam muội từ bi, gọi tắt là Thủy Sám.

Sám pháp mà quý vị đang có trong tay không phải là Thủy Sám mà là Địa Sám. Địa là đất. Tiếp xúc với đất, nương tựa vào đất, tiếp nhận năng lượng vững chãi và sâu dày của đất để cho đất ôm lấy mình và giúp mình chuyển hóa vô minh, khổ đau và tuyệt vọng, đó là phương pháp Địa Sám. Ở đâu cũng có Đất, ở đâu ta cũng có thể tiếp xúc với Đất, ở đâu ta cũng lạy xuống để tiếp nhận năng lượng vững chãi và vô úy của Đất. Ta có thể nói: “Xứ xứ hữu địa, xúc chi tắc an” nghĩa là đâu đâu cũng có đất, tiếp xúc được với đất thì sẽ an lành.

Sám pháp này được gọi tắt là Địa Sám, nói cho đủ là Sám Pháp Địa Xúc hoặc Kiên Hậu Tam Muội Địa Xúc Sám Pháp. Kiên (vững chãi) và hậu (dày đặc) là hai đặc tính của đất. Bài tựa kinh Địa Tạng có câu ca ngợi Bồ tát Địa Tạng như sau: “Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng” (địa có nghĩa là vững chãi, dày dặn và có tác dụng ôm ấp rất rộng lớn). Năng lượng của niệm và của định được chế tác trong khi tiếp xúc với Đất có khả năng thức tỉnh, chuyển hóa, thanh lọc, đem lại nguồn vui sống cho ta ngay trong khi thực tập sám hối, và cố nhiên là sau buổi thực tập.

Mỗi bài trong quyển Sám Pháp Địa Xúc này giống như một buổi tâm tình với đức Thế Tôn. Ta có thể chọn một bài thích hợp với hoàn cảnh của ta mà thực tập. Trước khi thực tập Sám Pháp, ta có thể ngồi thiền hoặc đi thiền 30 phút để làm thân tâm lắng lại. Ta có thể một mình thực tập Sám Pháp Địa Xúc hoặc thực tập chung với nhiều người. Vị nào có giọng truyền cảm và có nhiều năng lượng niệm và định sẽ được chỉ định để đọc tụng, còn những vị khác lắng nghe. Trong khi nghe, chúng ta chắp tay trong tư thế đứng hoặc quỳ. Người được chỉ định đọc có thể đọc là “chúng con” thay vì “con”. Sau mỗi đoạn sám, mọi người thực tập lạy xuống khi nghe tiếng chuông. Mỗi lần lạy ta chỉ nên lạy hai hoặc ba lạy. Trong khi lạy, ta hoàn toàn phú thác thân mạng ta cho Đất, để đất có thể ôm lấy ta và giúp ta chuyển hóa những khổ đau và bế tắc trong ta. Nằm yên trong tư thế phủ phục ít nhất là trong thời gian ba hơi thở vào ra để có đủ thì giờ quán chiếu, khi nghe tiếng chuông nhấp của vị duy na, ta mới đứng lên để tiếp tục lạy hay thực tập đoạn kế tiếp. Nếu có nhu yếu thì ta đọc tụng lại phần kinh văn vừa đọc và lạy xuống một lần thứ hai. Thực tập như thế, hành giả sẽ thấy được rằng trong khi thực tập, niềm vui được sinh khởi, phiền não được chuyển hóa, và thân tâm càng lúc càng nhẹ nhàng.

Những bài sám dưới đây nhắm đến những vấn đề thực tế của tứ chúng của các đạo tràng, đánh động đến ước muốn sâu sắc sống một cuộc đời tỉnh thức, bình an, hài hòa với chính mình và với những người xung quanh ta. Trong chúng ta, ai cũng mong muốn chữa lành những vết thương hằn sâu trong thân và tâm, cũng là để xây dựng một xã hội lành mạnh hơn. Có những bài sám chỉ dành cho những người xuất gia, lại có những bài sám khác dành riêng cho những người cư sĩ. Ban đầu, chúng ta có thể có cảm giác rằng một số bài sám không dính líu gì đến tình trạng của mình, tuy nhiên, nếu nhìn sâu, chúng ta sẽ tìm thấy sự liên quan của mỗi đoạn sám với chính chúng ta. Sau khi lạy, chúng ta có thể cùng nhau pháp đàm để chia sẻ những kinh nghiệm sâu sắc hoặc những hoa trái gặt hái được trong lúc thực tập. Các bạn hành giả ưa thích sám pháp này có thể thực tập ba tháng một lần, ít nhất là trong năm phải thực tập hai lần. Công phu sẽ được đền bù một cách xứng đáng, ngay trong thời gian thực tập.

Sám Pháp

Tôi nhớ có một lần hai chị em được hầu chuyện Thầy tôi, Thầy đã nói với chúng tôi rằng: Thầy mới viết xong cuốn sách  Sám Pháp Địa Xúc, các con hãy thực hành sám pháp này thay cho kinh Thủy Sám. Cũng từ đó, Làng Mai đã thực tập Sám Pháp trong thời khóa hằng ngày.Trước ngày tôi thọ giới lớn, tôi đã dành thời gian riêng để thực tập một mình . Khi thực tập tôi thấy lòng mình nhẹ lân lân, hạnh phúc cứ dâng trào, những khổ đau và khó khăn được trị liệu và chuyển hóa. Tôi đã tiếp xúc rất sâu những lời Thầy dạy, tôi cảm thấy mỗi ngày mình như mới hơn, vui hơn. Điều mà tôi nhớ mãi là mỗi lần thực tập xong là tôi muốn viết thư cám ơn Thầy, cám ơn Bụt đã cho tôi một con đường và một giáo lý quá thâm diệu để nương theo mà hành trì. Trong thời gian qua, có rất nhiều tăng thân đến với nhau cùng thực tập phép Sám pháp này thay cho tụng  kinh. Năm ngoái có một vị Hòa Thượng từ Huế sang Làng Mai thăm, khi trở về  HT đã  hành trì Sám Pháp mỗi ngày, lại còn tổ chức các buổi lễ tụng Năm giới tân tu nữa. Nghe sự chia sẻ niềm vui và hạnh phúc khi được hành trì của Ngài, tôi càng trân quý và muốn pháp môn thực tập mầu nhiệm này đến cùng các bạn. Một khi chúng ta hết lòng thực tập, thì sự tiếp xúc sâu sắc với giây phút hiện tại có mặt . Lúc ấy,  chúng ta sẽ chế tác ra bình an, niềm vui và hạnh phúc. Chúc bạn thực tập có nhiều niềm vui và  lợi lạc trong cuộc sống.

Lời nguyện cầu hướng về Đất Mẹ

Trước khi thực tập theo tác phẩm này, xin hành giả dành thì giờ để tham khảo bài dưới đây. Đọc xong, hành giả sẽ cảm thấy gần gũi hơn với đất Mẹ và sự thực tập Địa xúc sẽ mang lại thêm nhiều hoa trái của sự trị liệu.

 

Kính lạy Mẹ, Mẹ là một hành tinh, là Mẹ của tất cả mọi loài, trong đó có loài người chúng con. Các con của Mẹ có đến hàng triệu chủng loại, loài nào cũng có ngôn ngữ của loài ấy. Vì Mẹ là Mẹ của tất cả chúng con nên Mẹ biết hết mọi thứ ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ của loài người, cho nên chúng con rất thoải mái mỗi khi được trò chuyện với Mẹ và dâng lời cầu nguyện lên Mẹ.

Mẹ là hành tinh xanh, là Bồ tát Thanh Lương Địa

Con cúi lạy Mẹ trong ý thức sáng tỏ là Mẹ đang có mặt trong con và con là một phần của Mẹ. Mẹ đã đưa con ra đời, Mẹ đã cung cấp mọi thứ để nuôi dưỡng con, trong đó có không khí cho con thở, nước trong cho con uống, thực phẩm cho con ăn và cây lá cho con trị bệnh. Con biết con sẽ không bao giờ chết bởi vì nếu Mẹ đã đưa con ra đời một lần thì Mẹ sẽ đưa con ra đời muôn vạn lần khác nữa. Mỗi lần con biểu hiện là một lần con trở thành mới tinh và mỗi lần con trở về là Mẹ lại từ bi đưa hai tay ra ôm lấy.

Mẹ là đại địa, Mẹ là Terra, Mẹ là Gaia, Mẹ là hành tinh xanh, Mẹ là Bồ tát Thanh Lương Địa. Mẹ rất thơm tho, rất mát lành. Mẹ rất xinh đẹp. Mẹ có khả năng tiếp nhận, giữ gìn và chuyển hóa tất cả. Kể cả đờm dãi tanh hôi, kể cả khí độc, kể cả phóng xạ nguyên tử Mẹ cũng có khả năng ôm ấp và chuyển hóa. Mẹ có dư dả thì giờ để làm việc ấy và nếu cần Mẹ có thể để ra một triệu năm.

Mẹ có bao nhiêu là con, các con của Mẹ có tới hàng triệu chủng loại, trong đó có con người. Chúng con có nhiều đứa vì tham lam, vì kiêu căng, vì ngu si không nhận ra được Mẹ, đã gây ra bao cảnh tàn khốc cho nhau và làm hại tới sức khỏe cũng như nhan sắc của Mẹ. Chúng con biết Mẹ có đủ sức ôm ấp và chuyển hóa, nhưng chúng con vì đã và đang dại dột nên vẫn còn tiếp tục khai thác và đấu tranh khiến đôi khi Mẹ phải nhọc lòng.

Đức kiên nhẫn và sức chịu đựng vô cùng lớn của Mẹ đã làm cho Mẹ trở nên một vị Bồ tát lớn, một nơi nương tựa vô cùng vững chãi cho tất cả chúng con. Mỗi khi chúng con lao đao, mỗi khi chúng con đánh mất tự thân trong quên lãng, trong buồn tủi, trong hận thù và tuyệt vọng, chúng con phải trở về thực tập địa xúc, tìm về nương tựa nơi Mẹ để lấy lại sự bình an, để phục hồi niềm vui sống và đức tự tin. Chúng con biết chúng con đều là con của Mẹ và dù chúng con có gây ra bao nhiêu lầm lỗi, chúng con cũng được Mẹ tha thứ. Và mỗi lần trở về với Mẹ là Mẹ sẵn sàng đưa vòng tay từ mẫu ôm lấy chúng con vào lòng. Chúng con có được tính bất sinh bất diệt là nhờ Mẹ. Mẹ cất chứa trong lòng Mẹ bao nhiêu kho tàng của năng lượng, chúng con nguyện sẽ sử dụng những kho tàng năng lượng đó một cách khéo léo để chúng đừng khô cạn, và để Mẹ khỏi phải tinh chuyên trải qua hàng triệu năm để phục hồi.

Mẹ không phải chỉ là Mẹ của chúng con mà còn là Mẹ của nhiều vị Bụt và nhiều vị Bồ tát khác.

Đức Thích Ca, Thầy gốc của chúng con, cũng là con của Mẹ. Bồ tát Quan Âm Nam Hải và Quan Âm Thị Kính cũng là con của Mẹ. Mẹ đồng trinh Maria cũng là con của Mẹ. Thánh mẫu Liễu Hạnh cũng là con của Mẹ. Bồ tát Thường Bất Khinh và Bồ tát Địa Tạng cũng là con của Mẹ. Cha mẹ của chúng con cũng là con của Mẹ. Nhiều đứa con của Mẹ được Mẹ giáo dưỡng nhiều kiếp cũng đã trở thành những vị Bồ tátcó khả năng giáo hóa và biết cách bảo hộ cho Mẹ. Có những vị Bồ tát có khả năng tiếp xúc, tìm hiểu và giúp Mẹ thiết lập được liên hệ với những tinh cầu khác trong Thái Dương hệ, trong dải Ngân Hà và với những dải tinh hà khác trong vũ trụ. Mẹ đã thiết lập được liên hệ hòa điệu với những tinh cầu khác của Thái Dương hệ, nhất là với Mặt trời và Mặt trăng, đã vận hành đều đặn trong tương tức với các hành tinh ấy để tạo nên ngày đêm và bốn mùa. Chúng con biết Mẹ là một vị Bồ tát trong số những vị Bồ tát xinh đẹp nhất, rất hiếm có trong vũ trụ. Chúng con biết Mẹ có đức kiên nhẫn và chịu đựng rất lớn cho nên chúng con hết lòng tin tưởng, nương tựa vào Mẹ.

Mẹ đã được biểu hiện từ khoảng 4,5 tỷ năm trước, và Mẹ đã chờ đợi tới hơn 3,5 tỷ năm mới đưa được chúng con ra đời và trở nên một hành tinh xinh đẹp, đầy sức sống như hiện nay. Từ trong lòng đại dương, sự sống bắt đầu sinh sôi nẩy nở trên thân hình Mẹ và làm thay đổi bầu khí quyển để cho biết bao nhiêu chủng loại mới được biểu hiện. Sau một tỷ năm, lượng oxy tích tụ trong bầu khí quyển đã tạo nên tầng ozone có tác dụng ngăn chặn những tia phóng xạ độc hại giúp cho sự sống được lan tỏa trên mặt đất.

Trong những tỷ năm đầu, Mẹ đã đi qua những giai đoạn khó khăn để tạo ra bầu khí quyển. Mẹ đã phải thở ra những chất hơi nồng rực và phun lửa từ các Hỏa Diệm Sơn. Trong quá trình đó, khí gas thoát ra từ bề mặt của Mẹ tạo thành hơi nước trong khí quyển, cùng với nước và băng do các tiểu hành tinh và các sao chổi trên không, hơi nước ấy đã giúp Mẹ tạo ra được đại dương. Nhờ có các chất khí nhà kính đã giữ lại sức nóng từ Mặt trời nên các đại dương kia không bị đóng thành băng. Thêm vào đó, lực hấp dẫn và từ trường của Mẹ đã giúp cho bầu khí quyển không bị thổi bay đi vì những cơn gió lớn phát xuất từ Mặt trời cũng như những tia vũ trụ, nhờ vậy mà sự sống được duy trì.

Chúng con biết trước khi hình thành bầu khí quyển, Mẹ đã phải chịu đựng sự va chạm của một thiên thể lớn bằng sao Hỏa và một phần khối lượng ấy đã đi vào Mẹ. Một phần khác của thiên thể và một ít da thịt Mẹ đã bị đánh bật, tách rời ra thành một hành tinh khác gọi là Nguyệt cầu. Mẹ ơi, Nguyệt cầu là một phần của Mẹ, cũng đẹp như một nàng tiên, và đó là dì Trăng của chúng con. Dì luôn luôn đi theo Mẹ, níu áo Mẹ, giúp cho Mẹ đi chậm lại và giữ được sự cân bằng, đồng thời tạo ra thủy triều sớm tối trên hình hài Mẹ.

Cha của chúng con là Mặt trời, là một vị Bụt lớn, là Đại Nhật Như Lai.

Và Cha đang có mặt trong Mẹ và trong con.

Lạy Mẹ, con biết Mẹ luôn luôn cần đến Cha để có thể tiếp tục sinh ra chúng con và nuôi dưỡng chúng con. Cha con là Mặt trời. Mẹ đi theo Cha, và vận hành theo một quỹ đạo quanh Cha 365 ngày trong một chu kỳ có xuân hạ thu đông, làm nên một năm 12 tháng. Ánh sáng của Cha chiếu rọi làm cho Mẹ ấm áp tạo thành hiệu năng quang hợp và giúp Mẹ làm ra sự sống cho chúng con. Mẹ cũng đã từ cùng một tinh vân với Cha mà tới. Đường kính của Cha lớn tới 100 lần đường kính của Mẹ. Ánh sáng của Cha cần tới 8 phút đồng hồ mới đi tới được Mẹ, dù khoảng cách giữa Cha và Mẹ chỉ vào khoảng 150 triệu cây số.

Kính lạy Mẹ, mỗi khi con chiêm ngưỡng Mẹ, con thấy Cha trong Mẹ và trong con. Cha con không phải chỉ ở trên trời mà cũng ở dưới đất và đang có mặt trong Mẹ và trong con. Mỗi buổi sáng Cha con xuất hiện từ phương Đông như một chiếc đĩa hồng chói lọi, hào quang phóng ra muôn phương rạng rỡ uy hùng không thể nào tả nổi. Cha con là Mặt trời, là Sol, là Surya, là Sunna. Cha con là một vị Bụt lớn, một vị Bồ tát lớn, là Đại Nhật Như Lai, là Vô Lượng Quang, là Vô Lượng Thọ, là Bụt Amitabha (tức Bụt A Di Đà), là thần Thái Dương. Cha con có cơ thể lớn hơn cơ thể Mẹ rất nhiều. Tuy là một bậc Cha hiền, có lượng cả bao la, nhưng Cha con uy dũng vô cùng và cũng vô cùng dữ dội. Cái vương miện mà Cha con đội đầu nóng hơn 55000C, cho nên Cha con đang mang hình thức loãng, không có được cái vỏ ngoài đặc cứng và cố định như chiếc áo sinh quyển xanh tươi duyên dáng mà Mẹ đang khoác.

Cha con là một vì sao trong số ít những vì sao lớn nhất của dải Ngân Hà. Tám mươi lăm phần trăm những ngôi sao của tinh hà này đều nhỏ bé hơn Cha. Khối lượng của Cha tuy vĩ đại như thế, lớn hơn khối lượng của Mẹ 330.000 lần, nhưng khối lượng ấy đang tiêu mòn từ từ, vì mỗi giây Cha con đều hiến tặng một ít khối lượng ấy cho thế gian dưới hình thái năng lượng: đó là năng lượng ánh sáng. Sự sống có được trên hình hài Mẹ là nhờ Mẹ con ta tiếp thu được ánh sáng ấy, nhờ quá trình quang hợp. Tuy là một đấng Vô Lượng Thọ, nhưng Cha con cũng vô thường, và đến một ngày nào đó, gần như tất cả khối lượng vĩ đại của Cha sẽ trở thành năng lượng. Sắc tướng hiện thời của Cha sẽ không còn nữa, nhưng với năng lượng phát ra, Cha sẽ tiếp tục biểu hiện dưới những sắc tướng khác. Tuy nhiên, ngày ấy còn xa lắm, nghĩa là ít nhất cũng mười tỷ năm nữa. Hào quang của Cha phóng ra là sự tiếp nối của Cha, và năng lượng ấy không bao giờ mất đi dù là một quang tử, cho nên Cha con vẫn mãi là đấng Vô Lượng Thọ.

Kính lạy Mẹ, chúng con đã biết được rằng Cha chúng con, Mặt trời, là một trong những vì sao lớn nhất và sáng nhất trong dải Ngân Hà, một tinh vân gồm khoảng 200 tỷ ngôi sao. Hệ Thái Dương của Cha con đang vận chuyển trong dải Ngân Hà ấy, và Mặt trời của chúng con là một vị Bụt đang được vây bọc bởi một chúng hội các hành tinh khác. Mẹ là hành tinh xinh đẹp nhất trong bốn hành tinh đang vận chuyển ở phần bên trong của hệ Thái Dương. Sao Thủy (Mercury) là hành tinh có quỹ đạo gần Cha con nhất, rồi đến sao Kim (Venus), rồi mới tới Mẹ. Sau Mẹ thì tới quỹ đạo của sao Hỏa (Mars). Giữa sao Hỏa và sao Mộc (Jupiter) là cả một vòng đai có cả hàng chục ngàn những tiểu hành tinh (asteroids), trong đó có tiểu hành tinh Ceres có đường kính gần 1.000 cây số và cũng có rất nhiều tiểu hành tinh khác mà đường kính dài hàng trăm cây số. Ngoài ra còn có hàng trăm ngàn tiểu hành tinh nhỏ hơn, có những hành tinh còn nhỏ hơn những hạt bụi.

Sao Mộc cách Mặt trời Cha con khoảng 900 triệu cây số. Sao Mộc có đến 64 vệ tinh, trong đó có vệ tinh Europa với một lớp băng dày đến vài cây số, bên dưới lớp băng này có thể có nước loãng và cũng có thể có sự sống. Một vệ tinh khác của sao Mộc là hành tinh Ganymede, lớn hơn cả sao Thủy, đó là vệ tinh lớn nhất trong hệ Mặt trời. Sao Mộc lớn hơn Mẹ tới 318 lần, và phần lớn của sao Mộc cũng như của Mặt trời được làm bằng khinh khí và hélium. Sau sao Mộc thì đến sao Thổ (Saturn), tuy nhỏ hơn sao Mộc nhưng cũng lớn hơn Bồ tát Địa Cầu Mẹ của chúng con đến gần 100 lần. Sao Thổ cũng có tới 62 vệ tinh đi quanh yểm trợ, trong đó có vệ tinh Titan – vệ tinh này lớn hơn cả sao Thủy. Vệ tinh Titan là Mặt trăng lớn thứ hai của hệ Thái Dương, sau Ganymede và lớn gấp ba lần so với Mặt trăng của Địa Cầu chúng con. Ngoài ra còn có sao Thiên Vương (Uranus) và Hải Vương (Neptune) là hai hành tinh cuối cùng trong hệ Mặt trời. Chúng hội của Bụt Mặt trời như thế là rất đông đảo và chúng con cảm thấy đây là một gia đình thực thụ, một tăng thân ấm cúng đang đi thiền hành chung một cách mầu nhiệm trong dải Ngân Hà.

Chúng con thường quán sát rằng mỗi chúng con đều có một trái tim trong cơ thể và nếu trái tim trong chúng con ngừng đập thì chúng con phải chết liền lập tức. Nhưng nhìn lên, chúng con biết Mặt trời cũng là một trái tim khác của chúng con, không phải nằm trong cơ thể nhỏ bé này mà nằm trong cơ thể Thái Dương hệ. Nếu Mặt trời Cha chúng con biến mất thì sự sốngcủa chúng con cũng như sự sống của Mẹ đều phải chấm dứt. Cho nên chúng con thường quán chiếu về trái tim Mặt trời để thấy được sự có mặt thường xuyên của Cha trong chúng con và ngoài chúng con, để thấy được ngoài và trong cũng chỉ là những ý niệm.

Vòng tay của Cha rất rộng, chúng con biết nếu Cha ôm Mẹ và chúng con vào lòng thì cả Mẹ và chúng con đều trở thành tro bụi, chất hơi và chất loãng. Tuy nhiên, Mẹ đã biết sử dụng dưỡng khí từ quá trình quang hợp để tạo nên một lớp ozone trên thượng tầng khí quyển, giúp ngăn chận lại những tia phóng xạ cực tím, nhờ đó che chở được cho các loài sinh vật đang được Mẹ nuôi dưỡng. Sở dĩ chim chóc vẫn được cái hạnh phúc trở về với mây trời thênh thang, sở dĩ hươu nai vẫn có cái thích thú chạy nhảy ở đồng quê, đó là nhờ khả năng đùm bọc và che chở của Mẹ. Mẹ đã tiếp thu, đã gặt hái ánh sáng của Cha một cách khéo léo để nuôi dưỡng đàn con của Mẹ và làm cho Mẹ xinh đẹp hơn từ gần hơn một tỷ năm nay. Chúng con biết tương lai của Mẹ con ta tùy thuộc vào tương lai của Cha Mặt trời. Nhật quang của Cha sẽ tăng lên gấp 40 phần trăm nhật quang bây giờ trong ba tỷ rưỡi năm nữa và nếu Mẹ không đổi thay quỹ đạo, thì tất cả đại dương trên thân hình Mẹ sẽ khô cạn mau chóng, và sự sống trên thân hình Mẹ sẽ không còn.

Có những đứa con của Mẹ thấy Cha ngày nào cũng đi từ phương Đông sang phương Tây và nghĩ rằng quê hương của Cha, Tịnh độ của Cha là ở phương Tây. Nhưng chúng con đã thấy được như Mẹ rằng đó chỉ là một biểu tượng. Cha đang có mặt khắp nơi: đứng bên này bán cầu mà nhìn thì Cha ở phương Tây nhưng đứng ở bên kia bán cầu mà nhìn thì Cha đang ở phương Đông. Bụt không phân biệt Nam và Bắc, trong và ngoài. Cha con đang ở trên đầu nhưng Cha con cũng đang ở trong con và trong Mẹ. Thấy được Cha được Mẹ trong con rồi thì con đâu còn phải đi tìm cầu nữa.

Mẹ đã gặt ánh sáng của Cha để làm nên sự sống, làm nên chiếc áo màu xanh tuyệt diệu của ngày hôm nay.

Chắc Mẹ còn nhớ là hồi mới được tượng hình từ khối tinh vân đầy bụi và các chất hơi của Cha để lại, thì Mẹ, cũng như Cha, bấy giờ chưa có chiếc áo lụa mát mẻ của ngày hôm nay. Ngày ấy chiếc áo của Mẹ làm bằng chất loãng và rất nóng. Từ từ nhờ hơi nước tụ lại trong bầu khí quyển mà da thịt Mẹ mát lạnh lại, và tạo thành một lớp vỏ cứng. Đó là vào khoảng năm tỷ năm về trước. Hào quang của Cha hồi ấy chỉ rạng rỡ vào khoảng 70% hào quang bây giờ. Nhưng các chất khí nhà kính và ánh sáng của Cha đã nâng cao sức ấm trên mặt đất, và giúp sưởi ấm cho Mẹ, khiến cho các đại dương của Mẹ không trở thành đông đặc.

Mẹ ơi, từ bốn tỷ năm về trước các nguyên tử – có thể đã đến từ ngoài không gian – đã biết giao lưu với nhau và có khả năng tự tái tạo để sản sinh ra những phân tử đầu tiên. Những phân tử đó trở thành gần như các tế bào sống, làm nền tảng để cho Mẹ bắt đầu tạo nên sự sống. Những hạt bụi từ các ngôi sao xa hàng triệu năm ánh sáng đã đến viếng thăm Mẹ và ở lại với Mẹ. Phép quang hợp đã cho Mẹ khả năng gặt hái ánh sáng của Cha để làm nên sự sống. Những tế bào nhỏ từ từ đi vào nhau tạo thành những tế bào lớn, những sinh vật đơn tế bào từ từ đi tới những sinh vật đa tế bào. Sự sống từ dưới nước bắt đầu đi lên đất và bây giờ đây Mẹ đã có một chiếc áo màu xanh tuyệt diệu. Nhưng vô thường là bản tính của vạn pháp cho nên sự sống trên hình hài Mẹ đã hơn năm lần bị biến cố tiêu diệt trên một bình diện khá lớn. Biến cố gần nhất là khi một thiên thể chạm vào hình hài Mẹ, làm diệt chủng loài khủng long và nhiều loài bò sát vĩ đại khác. Tuy nhiên nhiều loài động vật nhỏ bé hơn như loài bộ nhũ vẫn còn sống sót được. Trong khoảng 65 triệu năm vừa qua, các loài này đã sinh sôi nẩy nở phân thành nhiều chủng loại.

Và chỉ mới mấy triệu năm vừa qua thôi, loài người chúng con mới bắt đầu xuất hiện dưới hình thức những loài vượn giả nhân như vượn orrorin tugenensis có khả năng đứng dậy và buông thõng hai tay. Từ đó con vượn có khả năng sử dụng khí cụ, và các biện pháp liên lạc giúp cho bộ não được nuôi dưỡng, nẩy nở và tiến hóa thành con người. Hoạt động nông nghiệp và các nền văn minh bắt đầu giúp cho con người trở thành một sinh vật có được thứ quyền năng mà chưa bao giờ các loại sinh vật khác có được trên mặt đất. Con người khi xấu ác có thể trở thành hiểm độc và bạo động vô cùng, nhưng con người khi tu tập có thể trở nên những bậc hiền thánh, các vị Bụt, các vị Bồ tát có thể thương yêu và cứu giúp không những cho đồng loại mà còn cho những chủng loài khác và cũng có khả năng bảo hộ cho Mẹ, giữ gìn sắc đẹp cho Mẹ.

Mẹ là Tịnh độ, là quê hương mà chúng con có thể trở về trong mỗi bước chân.

Chúng con không cần đi tìm một Tịnh độ hay một Thiên quốc ở một nơi nào khác hoặc ở trong tương lai.

Kính lạy Mẹ, ở đâu có đất là ở đấy có Mẹ. Đất Mẹ sinh trưởng ra chúng con, chuyên chở chúng con và nuôi dưỡng chúng con. Nếu chúng con nuôi dưỡng được ý thức là trong Mẹ luôn luôn có con và trong con luôn luôn có Mẹ thì cả Mẹ cả con đều an vui và khỏe mạnh. Nhưng có những đứa con của Mẹ không thấy được điều ấy cho nên thường hay tự đánh mất mình, không có khả năng nhận diện được hình hài mình cũng là hình hài Mẹ, tâm tư chìm trong tạp niệm hoặc trong thế giới ảo mộng, quên rằng mình đang có một hình hài tuyệt diệu do Mẹ ban cho.

Chúng con mỗi ngày nguyện đi từng bước chân chánh niệm, ý thức rõ rệt là mình đang giẫm chân trên thật địa, để trong mỗi bước chúng con có thể tiếp xúc với Mẹ, với những mầu nhiệm của sự sống biểu hiện trên hình hài Mẹ. Chúng con biết là mỗi bước chân như thế đều có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu, mỗi bước chân như thế có thể đem chúng con về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với Mẹ. Mẹ là Tịnh độ, nơi vô số các vị Bụt và Bồ tát đã được sinh ra và đã thành đạo, đã giáo hóa. Chúng con không cần đi tìm một Tịnh độ hay một Thiên quốc ở một nơi nào khác hoặc ở trong tương lai. Mẹ là một Tịnh độ xinh đẹp tuyệt vời, Mẹ là quê hương mà chúng con có thể trở về trong mỗi bước chân. Chúng con không muốn mơ tưởng về một Thiên quốc hay một cõi cực lạc nào khác nữa.

Thầy của chúng con là con của Mẹ, đã thành đạo dưới gốc một cây Bồ đề, đã nhận nơi này làm quê hương. Chúng con cũng muốn nối tiếp sự nghiệp của Thầy, nguyện đời đời kiếp kiếp ở lại với Mẹ, giúp cho Mẹ thêm tài năng và sức khỏe để cho ra đời rất nhiều vị Bồ tát Tùng Địa Dũng Xuất.

Có những người thiếu chánh tư duy, nghĩ rằng Ta bà và Tịnh độ là hai cõi khác nhau, và khuyên chúng con nên phát tâm nhàm chán cõi Ta bà để cầu sinh về cõi Tịnh độ. Họ không biết rằng nếu tâm họ thanh tịnh, đầy thương yêu, nếu họ có khả năng biến rác thành hoa, lấy bùn nuôi sen thì họ sẽ thấy phiền não tức bồ đề và Ta bà là Tịnh độ. Họ không biết rằng tùy theo cách nhìn của họ mà cõi này là Tịnh độ hay Ta bà. Mỗi biểu hiện trên thân hình Mẹ, như một đám mây bay hay một chiếc lá rơi cũng đủ cho chúng con thấy được tự tính không sinh không diệt, không có không không của thực tại mầu nhiệm, và chúng con có thể rong chơi thỏa thích mà không cần sợ hãi lo âu về có không, còn mất, thêm bớt và dị đồng.

Kính lạy Mẹ, có những đứa con của Mẹ còn đặt câu hỏi sau khi hình hài mà Mẹ cho tan rã thì họ sẽ đi về đâu, nhưng chúng con biết rất rõ là chúng con sẽ trở về với Mẹ. Đó là một điều hiển nhiên. Nếu biết quán chiếu, chúng con sẽ thấy được tự tính không đi không về của vạn pháp, và chúng con sẽ không còn thắc mắc về chuyện đi và về. Biết rằng Mẹ đã từng cho chúng con biểu hiện thì Mẹ sẽ tiếp tục cho chúng con biểu hiện. Mỗi lần biểu hiện là một lần mới tinh, do đó chúng con không cần phải lo âu, sợ hãi nữa.

Mỗi khi ngồi yên trên đất Mẹ, ý thức là Mẹ đang có trong con, con luôn luôn ao ước có những đức lớn của Mẹ, đó là đức kiên trì chịu đựng, đó là đức trung hậu bền vững, đó là đức vô úy đại hùng, đó là đức sáng tạo không hề biết mỏi. Chúng con nguyện hành trì để có được đầy đủ những đức ấy của Mẹ, và chúng con biết rằng Mẹ đã gieo tất cả những hạt giống tiềm năng ấy trong tâm điền của mỗi chúng con.

Các con của Mẹ sinh ra đều xinh đẹp và đã cùng góp sức làm cho Mẹ thêm xinh đẹp. Một hồ nước trong, một cây tùng xanh, một áng mây hồng, một đỉnh núi tuyết, một khu rừng thơm, một con hạc trắng, một chú nai vàng, v.v… Tất cả những biểu hiện mầu nhiệm ấy đều là con của Mẹ và đứa nào cũng có thể làm cho Mẹ càng ngày càng xinh đẹp. Chúng con là con của Mẹ, mà cũng là tự thân của Mẹ, bởi vì Mẹ đang có mặt trong mỗi chúng con. Vì Mẹ có Phật tính cho nên đứa con nào của Mẹ cũng có Phật tính, có khả năng tỉnh thức để biết sống hạnh phúc trong tinh thần trách nhiệm.

Chúng con đang tập thương đất Mẹ, thương trời Cha và thương nhau trong ánh sáng của tuệ giác bất nhị và tương tức. Chúng con biết cái thấy bất nhị và tương tức giúp chúng con vượt thoát mọi kỳ thị, sợ hãi, ganh tị, oán thù và tuyệt vọng.

Mẹ ơi, loài người chúng con nhờ có ý thức nên đã học hỏi và nhận diện được sự có mặt của mình, đã tìm ra vị trí thật của chúng con giữa lòng Mẹ và trong lòng vũ trụ. Chúng con biết là chúng con nhỏ bé vô cùng, nhưng tâm lượng của chúng con có thể bao trùm được cả ba ngàn thế giới. Chúng con đã biết rằng hành tinh xinh đẹp của chúng con không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một trong những biểu hiện nhiệm mầu nhất của vũ trụ. Chúng con đã phát triển được khoa học và kỹ thuật, chúng con đã khám phá ra được tự tính bất sinh bất diệt, không có cũng không không, không thêm cũng không bớt, không một cũng không khác của thực tại. Chúng con biết cái một chứa đựng cái tất cả, cái lớn nằm trong cái nhỏ, và mỗi hạt bụi có thể chứa đựng được cả pháp giới.

Chúng con đã chế tạo được những chiếc kính viễn vọng có thể tiếp thu được những ánh sáng mà mắt người không thể nào thu nhận được, như những tia hồng ngoại (infrarouges), tia tử ngoại (ultraviolet), tia X, hoặc tia gamma. Chúng con đã đặt những chiếc kính viễn vọng ấy trên những đài quán sát không gian, vượt lên cả bầu khí quyển mờ đục bao quanh đất Mẹ, cao hơn mặt đất có khi cả hàng ngàn cây số, và chúng con đã thấy được như Mẹ: một vũ trụ sáng rỡ nhiệm mầu không thể nào tả nổi. Chúng con đã thấy được những tinh hà xa xăm, những vì sao cách xa chúng con cả hàng trăm triệu năm ánh sáng. Và nhờ thế chúng con cũng thấy được thêm những nhiệm mầu của Mẹ và của cả chúng con. Tâm thức của chúng con cũng là tâm thức của Mẹ và của cả vũ trụ. Vũ trụ rạng ngời xinh đẹp kia mà chúng con thấy được cũng chính là tâm thức ấy mà không phải là một cái gì khách quan ở ngoài tâm thức ấy. Những đứa con nào của Mẹ biết tu tập, nhìn sâu với chánh niệm và chánh định cũng đạt được khả năng của Diệu Quan Sát Trí ấy.

Chúng con đang tập thương Mẹ, thươngCha và thương nhau trong ánh sáng của tuệ giác ấy. Chúng con biết cái thấy bất nhị và tương tức giúp chúng con vượt thoát mọi kỳ thị, sợ hãi, ganh tị, oán thù và tuyệt vọng. Chúng con nguyện trao truyền tuệ giác ấy cho những thế hệ tương lai. Chúng con không còn dại dột cho rằng con người là chúa tể của vũ trụ, và đã thoát được ý niệm về một đấng tạo hóa tồn tại dưới hình thức một con người. Có những đứa con của Mẹ đã đạt được cái thấy siêu việt lưỡng nguyên về thiện và về ác, không còn thắc mắc với cái ý chí của Đất và Trời. Nhiều đứa trong các con của Mẹ đã không còn tin vào sự có mặt của một ông già ngồi trên trời để điều khiển mọi việc trên mặt đất, hay sự có mặt của một bà tiên trên mây có thể tìm tới cứu độ cho ta khi ta có tai nạn.

Lạy Mẹ, con biết thế giới bản môn là tự tính đích thực của chúng con, không sinh không diệt, không tới không đi. Nếu chúng con biết tiếp xúc với tự tính ấy thì chúng con sẽ có an bình, hạnh phúc, không còn lo lắng và sợ hãi. Chúng con biết bản môn không phải là một cái gì tách ra khỏi tích môn. Nếu chúng con tiếp xúc được sâu sắc với bất cứ một cái gì của thế giới tích môn, dù cho là một chiếc lá, một bông hoa, một đám mây, một con hạc, một dòng sông, một đỉnh núi hay chính hình hài của chúng con là chúng con đồng thời tiếp xúc được với bản môn ấy. Bản môn ấy là chân như, là pháp thân, vượt ra ngoài những ý niệm có không, tâm vật, chủ thể đối tượng, nhân hay phi nhân. Nó luôn luôn chiếu sáng. Tiếp xúc với bản môn, chúng con sẽ có an lành và thoải mái như những con chim về được với trời mây hay những con nai thảnh thơi chạy nhảy ở đồng quê. Chúng con biết chúng con không cần phải đi tìm bản môn ấy ở một nơi nào xa xôi, bởi vì bản môn ấy là tự tính của chúng con, có mặt trong chúng con ngay trong giây phút hiện tại. Thực tập chánh niệm, quán chiếu duyên khởi, thực chứng không và tương tức là chúng con có thể trở về bản môn bất cứ lúc nào.

Nhiều đứa con của Mẹ khi đi ngang qua khổ đau đã quyết chắc rằng những gì gây khổ đau là ác và những gì đem lại an vui là thiện, mà không biết rằng khổ đau và hạnh phúc tùy thuộc vào cái nhìn của mình rất nhiều. Chúng con thấy sự vật như thế là vì các giác quan của chúng con như thế, nếu các giác quan của chúng con được cấu thành một cách khác hơn thì chắc chắn chúng con sẽ thấy sự vật khác hơn. Vì vậy các con biết rằng hạnh phúc và khổ đau cũng như Tịnh độ hay Ta bà tùy thuộc rất nhiều nơi cách thức chúng con quán chiếu về sự vật.

Chúng con biết thực tại tuyệt đối nằm ngoài mọi ý niệm sinh diệt và có không. Bụt có thể là một con người nhưng cũng có thể là một vì sao, các vị Bụt và Bồ tát lớn đã có mặt từ vô thỉ mà không nhất thiết phải mang hình thức con người, vì con người là một sinh vật xuất hiện rất muộn trên một hành tinh tương đối bé nhỏ: đó là Mẹ yêu quý của chúng con.

Cũng như Cha, tự tính của Mẹ là vô sinh bất diệt. Chúng con biết nếu tự tính của Mẹ là như thế thì tự tính của chúng con cũng như thế, nghĩa là vô sinh bất diệt. Chúng con cám ơn Mẹ đã thị hiện như một vị Bồ tát, không phải dưới hình thức một con người mà dưới hình thức một hành tinh. Dù chúng con có nhân cách hóa Mẹ, gọi Mẹ như gọi một bà mẹ người, thì chúng con vẫn biết Mẹ là Mẹ của tất cả mọi loài, trong đó có loài người chúng con.

Cũng như Cha và Mẹ, tự tính của chúng con là vô sinh, bất diệt.

Tự tính của chúng con cũng là Di Đà, là vô lượng hào quang, vô lượng thọ mạng.

Lạy Mẹ, có những người gọi tên Cha suốt ngày mà không biết là Cha đang có mặt trong bản thân mình và ngay trên đỉnh đầu mình. Họ không biết tự tính của họ là Di Đà, là vô lượng hào quang, vô lượng thọ mạng. Họ không biết họ là con của Cha, con của Mặt trời. Chính đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, Thầy của chúng con, cũng đã tự nhận là con cháu của dòng dõi Mặt trời. Chúng con ngày đêm được tiếp xúc với Cha như một thực tại nhiệm mầu mà không phải chỉ là một danh hiệu. Nếu Cha chúng con là vô lượng quang, vô lượng thọ, thì chúng con cũng là vô lượng hào quang, vô lượng thọ mạng. Mỗi tế bào của chúng con đều có thể chiếu rọi hào quang và đi về tương lai.

Lạy Mẹ, có những người đang bước trên đất Mẹ mà vẫn mong cầu tìm về một cõi Tịnh độ, không biết Mẹ chính là một cõi Tịnh độ tuyệt vời đang có mặt trong giây phút hiện tại. Họ không thấy được Tịnh Độ Duy Tâm, không thấy rằng nếu tâm mình thanh tịnh thì cõi đất mình đang giẫm lên trở thành Tịnh độ. Chúng con được ngày đêm rong chơi miền Tịnh độ nhờ tuệ giác ấy, nhờ pháp môn an trú với chánh niệm trong giây phút hiện tại. Chúng con đã có Tịnh độ, chúng con không còn đi tìm. Mẹ có khả năng chuyên chở chúng con ít nhất là 500 triệu năm nữa. Sau đó mẹ có thể hiện thân thành một hành tinh khác và chúng con cũng sẽ hiện thân thành những thực tại nhiệm mầu khác trên hình hài Mẹ. Kính lạy Mẹ, Mẹ có những đứa con tự hào là giỏi toán học, là công nhân khéo, là kiến trúc sư tài ba, nhưng ít ai thấy được Mẹ là nhà toán học vĩ đại nhất, người công nhân khéo tay nhất và là vị kiến trúc sư tài ba nhất. Chỉ cần nhìn vào một cánh hoa anh đào, một chiếc vỏ ốc hay một con dơi là thấy được điều đó. Chúng con có những họa sĩ tài ba, nhưng những bức tranh của chúng con làm sao so sánh được với những bức tranh của Mẹ vẽ ra trong bốn mùa? Làm sao chúng con vẽ được một buổi bình minh hào hùng như thế, làm sao chúng con vẽ được một hoàng hôn rạng rỡ như kia? Chúng con có những nhạc sĩ tài ba nhưng những bản hợp ca của chúng con làm sao bì kịp với những buổi hòa tấu mầu nhiệm của đất trời, những tiếng hải triều hùng vĩ? Chúng con có những chiến sĩ anh hùng gội nắng dầm mưa, trèo non vượt suối, nhưng có ai có được sức kiên nhẫn chịu đựng và khả năng ôm ấp lâu dài như Mẹ? Chúng con cũng có những tình yêu lớn nhưng có ai có được cái tình yêu ôm trọn muôn loài, không kỳ thị không phân biệt, như tình thương vĩ đại của Mẹ?

Kính lạy Mẹ, bây giờ đây mỗi khi giẫm chân trên đất Mẹ là con vượt thoát được các ý niệm vật chất và tinh thần. Thực tại nhiệm mầu của Mẹ vượt thoát ý niệm vật chất và tinh thần. Tâm và vật chẳng qua là hai ý niệm, chỉ là hai mặt của cùng một thực tại. Cây tùng kia không phải là vật chất bởi vì có cái biết trong nó. Hạt bụi kia không phải là vật chất bởi vì mỗi nguyên tử trong nó đều có sự thông minh, đều là những thực tại linh động. Tự tính của chúng con cũng là tự tính của Mẹ. Tự tính của Mẹ cũng là tự tính của vũ trụ; đó là tự tính tương tức, không có không không, không sinh không diệt, không thêm không bớt, không vật không tâm, không trong không ngoài, không tới không đi. Đất là một trong bốn đại nhưng đất ôm cả các đại khác trong lòng bởi vì đất được làm bằng những yếu tố không phải là đất. Bốn đại cũng mang trong lòng thời gian, không gian và tâm thức. Mỗi bước đi cho chúng con thấy sự thực sáu đại dung thông. Phật tính không phải chỉ có mặt trong con người mà có mặt trong muôn vật.

Chúng con phải học nhìn thế giới hiện tượng bằng cái thấy bản môn.

Nếu biết quán chiếu một cách sâu sắc, chúng con có thể vượt thoát mọi sầu khổ và hờn oán.

Kính lạy Mẹ, Mẹ là một vị Bồ tát lớn đã cho ra đời nhiều vị Bụt và Bồ tát, trái tim của Mẹ ôm lấy thái hư và trí tuệ của Mẹ chiếu sáng mười phương. Chúng con làm sao đem cái hiểu và cái thương của chúng con mà đánh giá được cái hiểu và cái thương của Mẹ. Có những đứa con chưa hiểu được Mẹ, oán hờn Mẹ đã sinh ra chúng để chúng phải khổ đau: “Thiều chi hoa, kỳ diệp thanh thanh, tri ngã như thử, bất như vô sinh” (Hoa thiều lá nó xanh xanh, thân ta biết thế đừng sinh ra đời), “Thiên địa bất nhân, thị vạn vật như sô cẩu” (Trời đất không có tình thương, xem vạn vật như chó rơm).

Quán chiếu cho sâu, chúng con thấy chúng con có thể vượt thoát mọi sầu khổ và hờn oán. Tiếp xúc sâu sắc được với tích môn, chúng con thấy được bản môn và hiểu được những gì đang xảy ra trong tích môn. Trong bản môn không có sinh, không có diệt, không có khổ, không có vui, không có đi, không có tới, không có thiện, không có ác. Chúng con phải học nhìn thế giới hiện tượng bằng cái thấy bản môn. Nếu không có tử thì không có sinh, nếu không có khổ thì không có vui, nếu không có ác thì không có thiện, nếu không có bùn thì không có sen. Bùn và sen không phải là kẻ thù của nhau. Sen và bùn nương nhau mà biểu hiện, khổ vui và thiện ác cũng thế.

Vì cái thấy về thiện ác của chúng con còn có tínhcách nhị nguyên cho nên mới có những đứa con đem lòng oán trời trách đất. Chúng con thường đem cái tâm nhỏ bé của chúng con để phán xét cái tâm lớn lao của Đất và của Trời. Những cơn lũ lụt, những trận cuồng phong, những trận hải chấn không phải là sự biểu hiện giận dữ của Mẹ hay của Cha hay những hành động trừng phạt mà chỉ là những gì phải thỉnh thoảng xảy ra trong tích môn để thiết lập lại thế thăng bằng. Một ngôi sao băng cũng thế. Để thiết lập thế cân bằng trong thiên nhiên, các chủng loại có khi phải chịu thiệt thòi, nhưng sự tàn bạo nào cũng kéo theo cái thảm khốc của nó, khi mức nhu yếu sinh tồn được thay thế bằng tham vọng và kiêu căng.

Chúng con đã thấy được rằng khi một chủng loại phát triển quá mau chóng và quá mức, gây tổn hại nặng nề, đe dọa sự sống còn cho những chủng loại khác thì tự nhiên có những nguyên nhân và điều kiện được phát sinh đưa tới sự tổn thất nặng nề hoặc hoại diệt của chủng loại ấy, để thế cân bằng được thiết lập lại giữa các chủng loại với nhau. Những nguyên nhân hoặc điều kiện nầy thường phát sinh từ bên trong của chủng loại ấy. Chúng con đã học được bài học là khi mình tàn ác với đồng loại và các loài khác là mình tàn ác với chính mình. Và khi mình biết bảo hộ cho muôn loài là mình đã bảo hộ cho chính bản thân.

Chúng con nguyện noi gương các vị Bụt và Bồ tát để tiếp nối được Mẹ, để xứng đáng là con của Mẹ. Và chúng con cũng muốn bảo hộ cho Mẹ để Mẹ có mặt lâu dài với chúng con.

Kính lạy Mẹ, nơi mỗi chúng con đều có Phật tính, bởi vì chúng con đều là con của Mẹ, dù chúng con là con người hay một loại sinh vật khác, một loại thảo mộc hay một loại khoáng chất. Loài người chúng con hay tự hào có ý thức, nhưng ý thức của chúng con chỉ là một công dụng trong nhiều công dụng khác của tâm thức, trong đó có Tàng thức và Yếm Ma La thức. Ý thức của chúng con cho chúng con khả năng nhận diện sự có mặt của chính mình và của vũ trụ trong giây phút hiện tại, nhưng ý thức ấy còn bị hạn chế bởi khuynh hướng phân biệt giữa có và không, sinh và diệt, trong và ngoài, một và tất cả.

Có những đứa con của Mẹ đã tu tập, đã quán chiếu, đã tịnh hóa và đã đạt tới Trí Vô Phân Biệt, tiếp xúc được với Niết bàn, với tự tính vô sinh bất diệt của mình. Chắc chắn Mẹ đã tự hào với những đứa con như thế, những đứa con đang tiếp nối được Mẹ trên quá trình tiến hóa, những đứa con có khả năng giáo hóa để giúp cho kẻ khác cũng đạt được cái thấy bất nhị, chuyển hóa mọi phân biệt, kỳ thị, sợ hãi, hận thù và tuyệt vọng.

Mẹ đã sinh ra được nhiều vị Bụt và Bồ tát lớn. Chúng con xin hứa với Mẹ là sẽ noi gương các bậc đàn anh và đàn chị ấy để đi lên, để xứng đáng là con của Mẹ, để xứng đáng đại diện cho tâm thức mầu nhiệm của Mẹ. Chúng con biết vạn pháp đều vô thường, vô ngã. Mẹ, Cha, các vị Bụt và Bồ tát cũng thế. Chúng con biết đứng về phương diện bản môn mà nói thì thọ mạng của Cha, của Mẹ, của muôn loài trong đó có những chiếc lá và nụ hoa là vô lượng, đứng ngoài sinh diệt có không. Nhưng đứng về phương diện tích môn, chúng con cũng muốn bảo hộ cho Mẹ để Mẹ có thể tiếp tục có mặt lâu dài trong hình thức xinh đẹp hiện tại của Mẹ, không những trong 500 triệu năm mà còn lâu dài hơn thế nữa. Chúng con muốn bảo hộ cho Mẹ để Mẹ có mặt lâu dài vớichúng con trong hệ Thái Dương ấm áp này.

Thấy được đức vững chãi và kiên trì nơi Mẹ, chúng con biết là chúng con phải trở về nương tựa nơi Mẹ. Và Mẹ cũng có thể tin tưởng và trông cậy chúng con.

Lạy Mẹ, có những lúc chúng con đau khổ thật nhiều vì thiên tai xảy ra. Chúng con ý thức rằng trong khi chúng con khổ thì Mẹ cũng đau khổ. Có khi chúng con hướng về Mẹ và hỏi: Chúng con có thể trông cậy và nương tựa vào Mẹ không? Những lúc ấy Mẹ không trả lời ngay cho chúng con. Sau đó Mẹ đã nhìn chúng con bằng con mắt đại bi và nói: “Cố nhiên là các con có thể nương tựa vào Mẹ, vì Mẹ sẽ luôn luôn có mặt đó cho các con. Nhưng các con cũng phải tự hỏi câu hỏi này: Liệu Mẹ có thể tin tưởng và trông cậy vào các con hay không?” Lạy Mẹ, chúng con đã thức nhiều đêm không ngủ với công án ấy. Bây giờ đây, với những khuôn mặt đầm đìa nước mắt, chúng con đến quỳ dưới chân Mẹ và dâng câu trả lời chân thành này lên Mẹ: “Mẹ từ bi và thánh thiện của chúng con ơi, Mẹ có thể trông cậy và tin tưởng ở chúng con”.

Lạy Mẹ, con thấy cả Pháp giới trong Mẹ và Mẹ trong con. Dù Mẹ là Mẹ của mọi loài, không phải chỉ là Mẹ của con người, chúng con vẫn có thể tâm sự được với Mẹ bằng ngôn ngữ của loài người, có thể hiểu được Mẹ và biết rằng Mẹ đang muốn chúng con sống như thế nào để mỗi giây phút trong đời sống hàng ngày chúng con có thể chế tác được năng lượng chánh niệm, bình an, vững chãi và thương yêu. Chúng con nguyện sẽ làm theo ý Mẹ. Chúng con có niềm tin vững chãi rằng nếu loài người chúng con cứ tiếp tục chế tác hàng ngày những năng lượng an lành ấy thì chúng con có thể giúp được mọi loài làm giảm bớt những khổ đau do chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật gây ra, có thêm được niềm vui sống, thừa hưởng được sự có mặt của Mẹ, của Pháp giới, và cũng có thể giúp làm giảm thiểu lại các thiên tai như hồng thủy, bão tố, địa chấn và hải chấn. Xin Mẹ an lòng tin tưởng ở chúng con.

Nhất tâm kính lễ đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, đức Bụt Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang A Di Đà hiến tặng sự sống trên hành tinh Đại Địa.

Nhất tâm kính lễ đức Bồ tát Thanh Lương Đại Địa, Mẹ của muôn loài luôn luôn chở che, nuôi dưỡng và trị liệu.

Dâng hương và khai kinh

Dâng Hương

Nguyện khói hương thơm này
Cung thỉnh được Thế Tôn
Có mặt với chúng con
Nơi đạo tràng ở đây
Trong giây phút hiện tại
Nguyện khói hương thơm này
Tỏa ngát cả mười phương
Thanh tịnh chốn đạo tràng
Giúp chúng con duy trì
Chánh kiến chánh tư duy
Nguyện khói hương thơm này
Bảo hộ cho chúng con
Vững chãi và thảnh thơi
Hiểu nhau và thương nhau
Bây giờ và mãi mãi
Hương giới, định và tuệ
Là tâm hương nhiệm mầu
Chúng con kính dâng lên
Chư Bụt và Bồ Tát
Trong thế giới mười phương


Nguyện mọi loài chúng sanh
Thấy được ánh đạo vàng
Ly khai nẻo sanh tử
Hướng về nẻo bồ đề
Thường trú trong an lạc
Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương (C)

Quán Tưởng

Sen quý nở đài giác ngộ
Hào quang chiếu rạng mười phương
Trí tuệ vượt tầm pháp giới
Từ Bi thấm nhuận non sông
Vừa thấy dung nhan Điều Ngự
Trăm ngàn phiền não sạch không
Hướng về tán dương công đức
Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng
Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)

Địa Xúc

Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C)
Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)
Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)
Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)
Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)
Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại,
từ Thiên Trúc đến Việt Nam (C)

Khai kinh

Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần) (C)
Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm
Cơ duyên may được thọ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi (C)


Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C)

Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát nhã Ba La Mật
Tức diệu pháp trí độ
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn (C)
”Nghe đây, Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả. (C)
Xá Lợi Tử, nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý – sáu căn
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp – sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc. (C)
Vì không có sở đắc
Nên khi vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)
Chư Bụt trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật”
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:


Gate
Gate
Paragate
Parasamgate
Bodhi
Svaha (3 lần) (CC)

 

Quán tưởng Đức Thế Tôn

Quán tưởng Đức Thế Tôn

Khải Bạch

Kính lạy đức Thế Tôn, con đang tập tiếp xúc với Ngài. Con thấy được Ngài qua hình ảnh của người con trai thành Ca Tỳ La Vệ. Con thấy được Ngài nơi người hành giả đang tu khổ hạnh chốn núi rừng hoặc đang ngồi thiền định vững chãi dưới gốc bồ đề. Con thấy được Ngài qua hình ảnh bậc đạo sư trên núi Linh Thứu và giữa vườn Cấp Cô Độc. Con thấy được Ngài qua hình ảnh của bậc du hóa mà bước chân còn ghi dấu lại trên những vương quốc nằm trên lưu vực sông Hằng. Con cũng thấy được Ngài qua hình ảnh của một bậc thầy già 80 tuổi, đang nằm thị tịch giữa hai cây sa la.

Kính bạch đức Thế Tôn, con biết thể chất đức Thế Tôn rất là khương kiện, Ngài sống tới 80 tuổi, trong khi vào thời đại Ngài chưa có những loại y dược có công năng trị liệu như trong thời đại chúng con. Xin cho con đem hết lòng thành kính lạy xuống, năm vóc sát đất trước hóa thân Thích Ca Mâu Ni của Ngài và cũng xin kính lạy xuống trước đức vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Ma-Gia và đất Mẹ. Con rất biết ơn hai vị và đất Mẹ đã sinh ra Thế Tôn, cống hiến cho đời một bậc thầy siêu việt.

Địa Xúc

Một lòng kính lạy đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni, bậc thầy vĩ đại của chúng con. (C)

Một lòng kính lạy đức Thánh Vương Tịnh Phạn, đức Thánh Mẫu Ma-Gia và đất Mẹ. (C)

Đức Thế Tôn có trong Pháp trong Tăng và trong con

Khải Bạch

Kính bạch đức Thế Tôn, con cũng thấy được Ngài nơi tăng đoàn nguyên thủy. Cũng như vua Ba Tư Nặc, mỗi khi thấy được tăng đoàn xuất gia của Ngài thì càng thấy được tầm vĩ đại của Ngài, càng có niềm tin tưởng nơi Ngài và niềm mến phục đối với Ngài, con thấy được sự có mặt của Ngài nơi tăng đoàn nguyên thủy. Ngài đã trao truyền tuệ giác và từ bi cho không biết bao nhiêu người, xuất gia cũng như tại gia, và những vị đệ tử này một phần nào đó đều là sự tiếp nối của Ngài, đều là Ngài. Con thấy được Thế Tôn trong giây phút hiện tại qua bốn chúng của tăng đoàn. Con thấy được Thế Tôn qua những pháp môn hành trì thông minh đang mang tới sự chuyển hóa. Con nhận diện được đức Thế Tôn nơi năng lượng trí tuệ và từ bi không những nơi con người mà còn nơi văn học, thi ca, kiến trúc, âm nhạc và những biểu hiện văn hóa và nghệ thuật khác nữa. Con nhận diện được Thế Tôn trong con, trong những hạt giống tuệ giác và tình thương, trong những lúc con hành xử theo tuệ giác và từ bi ấy.

Xin cho con lạy xuống một lạy để tiếp xúc với đức Thế Tôn trong con, trong tăng thân con, trong giáo pháp và pháp môn đang được lưu hành trong nhân gian, và trong cả những cái đẹp cái hay mà Thế Tôn đã tạo dựng được trong nếp phong hóa của con người.

Địa Xúc

Một lòng tiếp xúc với Bụt Thích Ca Mâu Ni, Thầy gốc của con, trong con và chung quanh con. (C)

Một lòng kính lạy Bụt Nhiên Đăng, Người đã thọ ký cho đức Bổn Sư của con. (C)

Hạnh phúc chân thật

Khải Bạch

Kính lạy đức Thế Tôn, con rất xúc động khi học được những gì Ngài từng dạy chúng con quán niệm hàng ngày:

– Tôi thế nào cũng phải già, tôi không thể nào tránh khỏi cái già

– Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào tránh khỏi cái bệnh

– Tôi thế nào cũng chết, tôi không thể nào tránh khỏi cái chết

– Những gì tôi trân quý hôm nay, ngày mai tôi cũng phải xa lìa…

Nhờ nuôi dưỡng tuệ giác vô thường con thấy con phải trân quý ngày tháng của con, tuổi trẻ của con, sức lực của con và vì vậy con không còn muốn lãng phí tháng ngày, tuổi trẻ và sức lực của con. Con nguyện sống cho sâu sắc, con nguyện trân quý ngày tháng, sức lực và tuổi trẻ của con. Thế Tôn đã biết sử dụng ngày tháng, sức lực và tuổi trẻ của Ngài để làm nên sự nghiệp giải thoát và giác ngộ, và để trao truyền sự nghiệp ấy lại cho chúng con. Con cũng muốn được như Thế Tôn, biết sử dụng thì giờ, tuổi trẻ và sức lực của con không phải để chạy theo quyền hành, chức vị, danh vọng và tài lợi, mà để tu tập chuyển hóa phiền não, phát khởi tuệ giác, chế tác thương yêu cho con và cho các thế hệ tương lai.

Bạch đức Thế Tôn, đức Thế Tôn đã sinh ra con trong đời sống tâm linh, cũng như thầy của con và tăng thân của con đã sinh ra con trong đời sống tâm linh và tiếp tục nuôi dưỡng con trong đời sống này. Con là đệ tử của đức Thế Tôn, con là em và là con của Ngài, và con ý thức là con phải là một sự tiếp nối xứng đáng của Ngài. Đức Thế Tôn không đi tìm hạnh phúc nơi danh vọng, tiền tài, sắc dục, quyền bính và của ngon vật lạ. Con ước ao bước theo đức Thế Tôn, nguyện không đi tìm hạnh phúc ở hướng ngũ dục, không nghĩ rằng tiền tài, danh vọng, sắc dục và quyền bính có thể đem lại hạnh phúc chân thực cho con. Con biết chạy theo những đối tượng thèm khát ấy sẽ chuốc lấy rất nhiều khổ đau và hệ lụy.

Hạnh phúc của Thế Tôn là tự do lớn, là tình thương lớn, là hiểu biết lớn. Nhờ có hiểu biết lớn mà Thế Tôn không bị bế tắc tâm linh và hoàn cảnh, không bị kẹt vào những tư duy sai lầm, không nghĩ, không nói và không làm những gì có thể tạo nên khổ đau cho bản thân và cho kẻ khác. Nhờ có hiểu biết lớn nên Thế Tôn có tình thương lớn, bao trùm được mọi loài. Tình thương lớn ấy đem tới an ủi, giải thoát và an lạc cho bao nhiêu người. Trí tuệ lớn và tình thương lớn của Thế Tôn đem tới cho Thế Tôn tự do lớn và hạnh phúc lớn.

Kính bạch đức Thế Tôn, con muốn làm được như Ngài. Con nguyện mỗi ngày tu tập để chế tác chất liệu hiểu biết, thương yêu và tự do, những chất liệu có công năng làm nên hạnh phúc cho con, cho tăng thân con và mọi người xung quanh con, bây giờ và trong tương lai.

Địa Xúc

Một lòng kính lạy đức Thế Tôn, bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu, bậc thầy chỉ đạo của tất cả chúng con. (C)

Một lòng kính lạy Tôn giả Baddhiya[1], người đã chứng nghiệm được hạnh phúc chân thật, để quán chiếu và làm vững mạnh lời nguyện của con. (C)

Một lòng kính lạy Tôn giả La Hầu La người đã đi trên con đường tu tập giải thoát từ lúc còn thơ ấu. Xin Ngài từ bi chứng minh lời phát nguyện của con và yểm trợ cho con. (C)

[1] Tiếng Hán Việt là Bạt đề, Bạt đề lỵ hoặc Bạt đề lợi ca. Trước khi xuất gia, Đại đức Baddhiya đã từng làm quan tổng trấn miền Bắc vương quốc Sakka và là người trong hoàng tộc Sakya. Một đêm kia trong lúc ngồi thiền dưới một gốc cây, ông bỗng cảm nhận một niềm vui sướng mà chưa bao giờ ông từng biết tới trong thời gian còn ở nhà, nên ông đã thốt lên: Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!

Xin tham khảo thêm Đường Xưa Mây Trắng chương 38, nhà xuất bản Phương Đông & Công ty Sách Phương Nam, 2017.

Hạnh phúc bây giờ và ở đây

Khải Bạch

Kính bạch đức Thế Tôn, con nhận diện được trong con tập khí sâu dày của thất niệm. Con hay để tâm suy nghĩ về quá khứ, chìm đắm trong những đau buồn hoặc tiếc nuối liên hệ tới quá khứ, do đó con đã đánh mất rất nhiều cơ hội tiếp xúc với những mầu nhiệm của cuộc sống có mặt trong giờ phút hiện tại. Con đã từng thấy những người không có khả năng sống cuộc đời của họ trong giây phút hiện tại. Quá khứ đã trở thành một cái nhà tù giam hãm họ, họ chỉ để thì giờ của họ để khóc than hoặc tiếc nuối về quá khứ, cho nên họ không còn cơ hội để được tiếp xúc với những gì tươi mát, đẹp đẽ, mầu nhiệm có tính cách nuôi dưỡng và chuyển hóa đang có mặt trong hiện tại. Họ không tiếp xúc được với trời xanh, mây bạc, liễu biếc, hoa vàng, tiếng thông reo, tiếng suối chảy, tiếng chim hót hay tiếng cười đùa của trẻ thơ trong nắng sớm.

Họ cũng không tiếp xúc được với những mầu nhiệm trong bản thân họ. Họ không thấy được hai mắt họ là những hạt minh châu: mở mắt ra là họ có thể tiếp xúc ngay với thế giới của muôn mầu và muôn vẻ. Họ không thấy được hai tai họ là hai cảm quan kỳ diệu: lắng tai chú ý là họ nghe được tiếng gió rủ rỉ qua cành thông, tiếng ca hát líu lo của chim oanh vàng hay tiếng hải triều đang tấu khúc nhạc trầm hùng buổi sáng. Trái tim, buồng phổi, não bộ cũng như khả năng cảm nhận, tư duy, quán tưởng của họ cũng là những nhiệm mầu của sự sống. Ly nước trong hay trái cam vàng trên tay họ cũng là những nhiệm mầu của sự sống. Họ có dư dả những điều kiện để sống hạnh phúc. Vậy mà họ đã không có khả năng tiếp xúc với những biểu hiện của sự sống, cũng chỉ vì họ đã không biết sử dụng hơi thở và bước chân chánh niệm để tập trở về với giây phút hiện tại.

Bạch đức Thế Tôn, có những người thiếu chánh tư duy, nghĩ rằng Ta bà và Tịnh độ là hai cõi khác nhau, và họ khuyên chúng con nên phát tâm nhàm chán cõi Ta bà để cầu sinh về cõi Tịnh độ. Họ không biết rằng nếu tâm họ thanh tịnh, đầy thương yêu, nếu họ có khả năng biến rác thành hoa, lấy bùn nuôi sen thì họ sẽ thấy được phiền não tức bồ đề và Ta bà là Tịnh độ. Nếu chúng con biết thực tập chánh niệm để an trú trong hiện tại thì chúng con có thể rong chơi thỏa thích trong Tịnh độ hiện tiền. “Chẳng biết rong chơi miền Tịnh độ, làm người một kiếp cũng như không.”

Xin đức Thế Tôn chứng minh cho con. Con xin hứa với Ngài là con sẽ tập không hành xử như những người ấy. Con xin nguyện thay đổi khái niệm về hạnh phúc của con. Con biết rằng tùy theo cách nhìn của con mà cõi này là Ta bà hay Tịnh độ. Tịnh độ không phải là một ý niệm mơ hồ hoặc một hứa hẹn hão huyền về tương lai. Con biết Tịnh độ đang thực sự có mặt cho con với những mầu nhiệm của nó. Con đường đất đỏ với hai bờ cỏ xanh là Tịnh độ. Những đóa hoa vàng, tím bé nhỏ kia cũng là Tịnh độ. Dòng suối róc rách kia và những hòn cuội nằm yên trong lòng suối cũng là Tịnh độ. Con biết rằng chỉ vì tâm ý con không an trú được trong hiện tại, chỉ vì con đã đi như bị ma đuổi, cho nên con không có cơ hội tiếp xúc với những mầu nhiệm ấy mà thôi. Nếu hàng ngày thực tập chuyên cần, con có thể chế tác năng lượng niệm, định và tuệ. Với năng lượng ấy con có thể luôn luôn trở về giây phút hiện tại để nhận diện ra vô số điều kiện hạnh phúc trong con và xung quanh con, và để tiếp xúc với Tịnh độ trong giây phút ấy. Con biết con không cần đợi cho hình hài này tan rã mới bắt đầu đi vào Tịnh độ. Con biết con có thể đi vào Tịnh độ ngay bây giờ và ở đây, nếu con có được một ít năng lượng chánh niệm và chánh định. Mà các năng lượng này, con có thể chế tác được bằng bước chân, hơi thở và cái nhìn của con.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy để tiếp xúc sâu sắc với đức Thế Tôn và cũng để tiếp xúc sâu sắc với Tịnh độ của giây phút hiện tại. (C)

Dừng lại – Hiện pháp lạc trú

 

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, có những người trong chúng con phải lái xe hoặc đi tàu điện một giờ mới tới sở làm và làm việc xong phải tốn thêm một giờ đồng hồ nữa mới về tới nhà. Về tới nhà đã mệt mà còn phải chăm sóc cho gia đình, nấu cơm và dọn dẹp nữa. Ngày này sang ngày khác chúng con sống như thế, luôn luôn bận rộn, lại phải lo trả tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại và tiền thuế… Ngoài ra còn có các vấn đề như đau ốm, thuốc men, thất nghiệp, tai nạn dọc đường… khiến cho chúng con phải sống một cuộc sống có nhiều áp lực, một cuộc sống nhiều lo âu và sợ hãi. Nhiều người trong chúng con lúc nào cũng sống gấp gáp, đang làm công việc này thì muốn làm cho mau xong để làm việc khác. Mà công việc thì cứ hiện ra tới tấp, việc này chưa xong thì việc khác đã tới. Rồi chúng con lại bị ràng buộc vào thói quen: không làm việc thì không chịu nổi, do đó mà cả cuộc đời trở nên bận rộn, một trăm năm đi vèo qua như một giấc mơ. Chúng con đã lang thang như những đứa con cùng tử, giẫm đạp lên giây phút hiện tại để chạy theo ảo ảnh của một hạnh phúc xa vời. Giờ đây nhờ giáo lý hiện pháp lạc trú của đức Thế Tôn, chúng con đã bắt đầu bừng tỉnh. Chúng con không muốn sống một cuộc sống như thế. Chúng con muốn sống thảnh thơi và sống sâu sắc trong mỗi giây phút của sự sống hàng ngày. Chúng con muốn làm việc ít lại, và làm việc như thế nào để mỗi giây phút đều đem tới niềm vui.

Bạch đức Thế Tôn, Tịnh độ đang có mặt ngay đây cho chúng con. Hơi thở chánh niệm sẽ làm biểu hiện cõi Tịnh độ ngay trong giờ phút hiện tại. Chúng con xin hứa là từ đây, chúng con sẽ thực tập để hơi thở nào cũng đưa chúng con về được với giây phút hiện tại, về được với sự sống, về được với quê hương đích thực của chúng con.

Châu báu chất đầy thế giới

Tôi đem tặng bạn sáng nay

Một vốc kim cương sáng chói

Long lanh suốt cả đêm ngày

Mỗi phút một viên ngọc quý

Tóm thâu đất nước trời mây

Chỉ cần một hơi thở nhẹ

Là bao phép lạ hiển bày

Chim hót thông reo hoa nở

Trời xanh mây trắng là đây

Ánh mắt thương yêu sáng tỏ

Nụ cười ý thức đong đầy

Này người giàu sang bậc nhất

Tha phương cầu thực xưa nay

Hãy thôi làm thân cùng tử

Về đi, tiếp nhận gia tài

Hãy dâng cho nhau hạnh phúc

Và an trú phút giây này

Hãy buông thả dòng sầu khổ

Về nâng sự sống trên tay.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy để thật sự dừng lại và để tiếp xúc sâu sắc với những mầu nhiệm của sự sống trong con và chung quanh con. (C)

 

Chăm sóc giây phút hiện tại là xây dựng tương lai

Khải Bạch

Kính lạy đức Thế Tôn, con nhớ đức Thế Tôn đã từng dạy là chúng con không nên tiếc nuối quá khứ mà cũng không nên tự đánh mất mình trong những lo lắng và sợ hãi đối với tương lai. Con thấy chung quanh con có rất nhiều người đang tự đánh mất mình trong những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Những lo lắng và sợ hãi đó khiến cho họ không có khả năng an trú và sống sâu sắc những phút giây hiện tại. Con nghĩ rằng chúng con có quyền và có thể lập những dự án cho tương lai và đặt nền tảng xây dựng tương lai mà không cần tự đánh mất mình trong những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Thật ra, chúng con biết chất liệu làm ra tương lai là hiện tại. Con biết nếu con đang xử lý hiện tại với tất cả tuệ giác và trái tim của con, thì con không cần phải lo lắng gì cho tương lai nữa, vì con đang làm tất cả những gì con có thể làm cho tương lai rồi. Lo lắng và sợ hãi là những năng lượng tiêu cực làm chướng ngại cho sự xây dựng hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai, vì vậy con biết rằng tập sống chánh niệm trong giờ phút hiện tại, sống cho vững chãi, thảnh thơi, chế tác thêm năng lượng hiểu biết và thương yêu là con không còn phải lo lắng gì nữa cả.

Thế giới ngày mai sẽ đi về đâu và con cháu của chúng con sẽ có một cơ hội sống hạnh phúc và thảnh thơi hay không, điều này tùy thuộc vào cách thức chúng con xử lý hiện tại. Nếu chúng con không tập sống đơn giản, không cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện trong một nếp sống đơn giản mà có tình huynh đệ, thì chúng con và con cháu chúng con sẽ không có một tương lai.

Lạy đức Thế Tôn, nếu chúng con biết xử lý hiện tại, nếu chúng con biết sống sâu sắc những giây phút hiện tại, tránh không nghĩ, không nói và không làm những gì tiêu cực trong những giây phút ấy mà chỉ nghĩ, nói và làm những gì có thể đem lại hiểu biết, thương yêu, an lạc, hòa điệu và thảnh thơi cho hiện tại, thì đó là con đã làm tất cả những gì con có thể làm để xây dựng một tương lai tươi sáng rồi.

Lạy đức Thế Tôn, con nguyện sống như thế nào để ý thức sáng tỏ này được thắp sáng trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày của con và để ý thức sáng tỏ ấy cũng được thắp sáng nơi tâm thức của mỗi người đồng loại. Con nghĩ đó là nếp sống cao quý nhất giúp cho chúng con tiếp nối được tuệ giác và hạnh nguyện của đức Thế Tôn.

Địa Xúc

Con kính xin lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn, bậc đầy đủ công hạnh và tuệ giác, và con xin hứa nuôi dưỡng ý thức này. (C)

Thiền đi

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, trong quá khứ con có tập khí đi như bị ma đuổi, đi chỉ biết mong cho mau tới, vì vậy cho nên con không biết sống trong giây phút hiện tại, không có cơ hội nhiều để được sống ung dung và tự tại. Từ ngày con học được phép thiền đi, con đã được chuyển hóa nhiều. Nhưng sự thực tập thiền đi của con vẫn chưa được vững chãi như con muốn, và không phải bước chân nào của con cũng được bước trong chánh niệm. Con thấy bao nhiêu người quanh con không có khả năng sống trong giây phút hiện tại vì họ chưa có cơ hội thực tập thiền đi. Con được đức Thế Tôn chỉ dạy là sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, vì vậy con muốn mỗi bước chân của con đều mang con trở về với giây phút hiện tại. Con muốn bước chân nào của con cũng mang lại thêm cho con năng lượng vững chãi và thảnh thơi, bước chân nào của con cũng giúp con tiếp xúc được sâu sắc với sự sống và những mầu nhiệm của sự sống. Con nguyện là mỗi khi bước đi, con sẽ chú tâm vào hơi thở, vào sự tiếp xúc giữa bàn chân với mặt đất mầu nhiệm. Con sẽ không nói chuyện trong khi đi. Nếu cần nói gì thì con sẽ ngừng lại, đem hết tâm ý vào câu nói hoặc vào sự lắng nghe. Và nói xong hoặc nghe xong, con mới tiếp tục cất bước. Nếu người đang đi với con chưa hiểu được sự thực tập này thì con sẽ dừng lại và chia sẻ với họ sự thực tập ấy, để trong khi bước đi con có thể để trọn tâm ý vào từng bước chân, để ý thức rõ rệt là mình đang giẫm chân trên thật địa, để có thể tiếp xúc sâu sắc với những mầu nhiệm của sự sống biểu hiện trên hình hài của đất Mẹ. Những mầu nhiệm của sự sống có mặt ngay trong giờ phút này, từ nụ hoa, hạt sỏi, dòng suối, con sóc, tiếng chim cho đến gió trăng và tinh tú. Con biết rằng còn sống, còn có đủ cả hai chân khỏe mạnh và đang bước đi thảnh thơi trên mặt đất là một phép lạ, là địa hành thần thông.

Bạch đức Thế Tôn, con xin hứa với Thế Tôn là con sẽ tổ chức đời sống của con như thế nào để mỗi khi con cần di chuyển bằng hai chân là con có thể áp dụng pháp môn thiền đi, dù quãng đường di chuyển ngắn hay dài. Từ phòng ngủ đi ra phòng tắm, từ nhà bếp đi xuống nhà vệ sinh, từ tầng dưới leo lên tầng trên, từ cổng nhà đi ra bến xe, mỗi khi bước đi là con sẽ áp dụng pháp môn thiền đi. Trong công viên, ngoài bờ sông, tại phi trường hay nơi siêu thị, ở đâu con cũng sẽ áp dụng pháp môn thiền đi. Con nguyện chế tác và làm tỏa chiếu năng lượng ung dung, thảnh thơi, vững chãi và an lạc bất cứ nơi nào con đi qua. Mỗi bước chân như thế đều có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu, mỗi bước chân như thế có thể đem con về với đất Mẹ, nơi vô số các vị Bụt và Bồ tát đã được sinh ra và đã thành đạo, đã giáo hóa. Đất Mẹ là một Tịnh độ xinh đẹp tuyệt vời.

Bạch đức Thế Tôn, Ngài cũng là một người con của đất Mẹ, đã nhận trái đất này làm quê hương. Ngày xưa đức Thế Tôn đã thanh thản rong chơi trong bao nhiêu quốc gia vùng lưu vực sông Hằng, đến đâu Ngài cũng lưu lại dấu chân an lạc và thảnh thơi của mình, nơi nào Ngài bước qua cũng đều trở nên thánh địa. Chúng con cũng muốn sử dụng hai bàn chân của Ngài để bước đi những bước chân như thế trên khắp năm châu. Chúng con đang có mặt khắp nơi và chúng con nguyện ngày nào cũng thực tập thiền đi để cho tất cả trái đất này trở nên thánh địa. Chúng con biết chỉ cần hết lòng thực tập thiền đi, chúng con cũng đã có thể tiếp nối được sự nghiệp của Bụt và của tăng đoàn nguyên thủy tới một mức độ tốt đẹp rồi. Con nhớ vua Ba Tư Nặc đã từng bạch với đức Thế Tôn là mỗi khi thấy tăng đoàn của đức Thế Tôn di chuyển trong chánh niệm, vững chãi và thảnh thơi là vua lại có niềm tin lớn nơi đức Thế Tôn. Chúng con nguyện cũng sẽ làm được như tăng đoàn nguyên thủy, để những người nào trông thấy chúng con đang di chuyển cũng phát sinh được niềm kính ngưỡng đối với Ngài.

Địa Xúc

Xin Thế Tôn cho con lạy xuống để tiếp xúc vớiThế Tôn và với các vị Bồ tát Trì Địa và Địa Tạng. (C)

Xin Thế Tôn cho con lạy xuống để tiếp xúc vớiTôn giả Assaji[1], nguồn cảm hứng cho bao nhiêu người nhờ vào sự thực tập thiền đi của thầy. (C)

[1] Tiếng Hán Việt là A thấp bà trí, A xả bà thệ, A xà du, hoặc Mã thắng. Assaji là một trong năm vị đệ tử xuất gia đầu tiên của Bụt ở Vườn Nai. Thấy phong độ ung dung và giải thoát của Đại đức, thầy Xá Lợi Phất rất lấy làm cảm phục và phát khởi niềm tin. Thầy Xá Lợi Phất liền đi theo Đại đức để tìm hiểu và sau đó, cùng với người bạn thân là Mục Kiền Liên, tìm đến Bụt để xin làm đệ tử của Ngài.

Xin tham khảo thêm Đường Xưa Mây Trắng, chương 29, nhà xuất bản Phương Đông và Công ty Sách Phương Nam, 2017.

Đi như Bụt đi

Khải Bạch

Lạy đức Thế Tôn, Ngài đã từng bước đi trên hành tinh này như một con người tự do, con cũng muốn bước đi trên hành tinh này như một con người tự do. Con biết là nếu con mong muốn, với tất cả trái tim, con cũng có thể làm được như Ngài. Chung quanh con có những người không bước đi được như thế. Họ chỉ biết chạy. Chạy về tương lai, bởi vì họ nghĩ hạnh phúc không thể có trong giây phút hiện tại. Họ đi trên đất nhưng tâm họ để trên mây. Họ đi như những người mộng du, không biết là họ đi đâu.

Bạch đức Thế Tôn, con nguyện noi gương đức Thế Tôn luôn luôn bước đi như một người tỉnh thức. Con nguyện trong bước chân nào, bàn chân con cũng chấm được vào mặt đất, và con ý thức được là con đang bước trên thật địa chứ không phải đang đi trong một giấc mơ. Đi như thế con có thể tiếp xúc được với tất cả những nhiệm mầu của vũ trụ. Con nguyện bước đi như thế nào mà bàn chân con có thể in lên mặt đất dấu ấn của thảnh thơi và của an lạc. Con biết những bước chân như thế sẽ có công năng trị liệu cho thân tâm con và cho cả trái đất.

Trong khi đi thiền ngoài trời với tăng thân,con nguyện sẽ ý thức được rằng con đang có hạnh phúc được đi với tăng thân, con sẽ tập đi không phải như một giọt nước mà như một dòng sông. Với hơi thở và bước chân, con chế tác năng lượng chánh niệm và chánh định để góp phần vào năng lượng chánh niệm hùng hậu của tăng thân. Con sẽ mở thân tâm con ra để năng lượng tập thể này đi vào trong con, bảo hộ con và đưa con đi như một dòng sông. Con biết trao gởi thân tâm của con và những niềm đau của con cho tăng thân ôm ấp và trị liệu, như vậy trong khi đi thiền tập con sẽ được nuôi dưỡng và chuyển hóa rất nhiều. Trong thiền đường, mỗi khi đi thiền hành con cũng sẽ đi như thế, mỗi bước chân được phối hợp với một hơi thở vào hay với một hơi thở ra. Con nguyện đi như thế nào để mỗi bước chân có thể nuôi dưỡng được con và tăng thân con bằng năng lượng thảnh thơi và vững chãi.

Địa Xúc

Con xin được lạy xuống trước đức Thế Tôn, trước đức Bồ tát Trì Địa để khắc sâu vào trong trái tim con lời phát nguyện là luôn đi như Bụt đi và đi như một dòng sông. (C)

Ngồi như Bụt ngồi

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn! Con rất ao ước được ngồi yên trong một tư thế vững chãi và hùng tráng như tư thế ngồi của đức Thế Tôn. Là đệ tử của đức Thế Tôn, con cũng muốn có phong độ và dáng dấp của Ngài. Con đã được dạy ngồi thiền, lưng thật thẳng mà không cứng, đầu ngay ngắn không cúi xuống cũng không ngửa ra, hai vai buông thư và hai tay đặt nhẹ nhàng lên nhau. Con cảm thấy vừa vững chãi vừa buông thư trong tư thế ấy. Con biết trong thời đại mà con đang sống, phần lớn người ta đều bận rộn, ít ai có cơ hội ngồi yên một cách thảnh thơi. Con nguyện sẽ thực tập thiền ngồi như thế nào để có hạnh phúc và tự do ngay trong khi ngồi. Dù trong tư thế kết già, bán già hay ngồi trên ghế với hai bàn chân đặt thẳng trên nền đất, con cũng sẽ tập ngồi như một con người tự do, tập ngồi làm sao để thân tâm lắng đọng và an tĩnh. Với hơi thở chánh niệm, con điều chỉnh thế ngồi giúp cho cơ thể con lắng dịu và an tịnh. Với hơi thở chánh niệm, con nhận diện và làm lắng dịu lại những cảm thọ hoặc cảm xúc trong con. Với hơi thở chánh niệm, con thắp sáng ý thức là con đang có cơ duyên đem thân và tâm về một mối, và làm phát sinh cảm thọ hỷ lạc. Với hơi thở chánh niệm, con quán chiếu tri giác và những tâm hành khác khi chúng biểu hiện và nhìn sâu vào bản chất của chúng để có thể thấy được những nguồn gốc phát sinh của chúng.

Bạch đức Thế Tôn, con sẽ không xem sự thực tập ngồi thiền là một nỗ lực gò bó thân tâm có tính cách cưỡng ép, là một thứ lao động nhọc nhằn để đi tới một kết quả hạnh phúc nào đó trong tương lai. Con nguyện tập ngồi như thế nào mà có thể có an lạc và được nuôi dưỡng trong khi ngồi. Trong các thế hệ tổ tiên huyết thống con, có những vị chưa bao giờ nếm được pháp lạc của sự ngồi thiền, con xin nguyện cũng ngồi cho các vị ấy. Con xin ngồi cho cha, cho mẹ, cho anh, cho chị và cho các em của con. Nếu con được nuôi dưỡng bằng sự thực tập thiền ngồi thì các vị ấy trong con cũng được nuôi dưỡng. Mỗi hơi thở, mỗi giây phút quán chiếu, mỗi nụ cười trong giờ thiền ngồi đều có thể trở nên một tặng phẩm cho họ và cho con, có công năng nuôi dưỡng con và nuôi dưỡng họ cùng một lúc. Con xin nhớ đi ngủ sớm để buổi khuya thức dậy ngồi thiền con không buồn ngủ. Nếu có buồn ngủ con sẽ xin phép tăng thân cho con ngồi lên trong tư thế quỳ để đưa thân tâm trở về trạng thái tỉnh táo, để không lãng phí giờ ngồi thiền của con bằng cách ngủ gục.

Trong giờ ăn cơm, uống trà, nghe pháp thoại, dự pháp đàm, con cũng sẽ tập ngồi vững chãi và ung dung như khi con ngồi thiền. Con sẽ không ngồi ngả nghiêng hoặc dựa vào tường như trong quá khứ. Trên đồi cao, ngoài bãi biển, dưới gốc cây, trên tảng đá, trong phòng khách, trên xe buýt, trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh hay trong một cuộc tuyệt thực cho nhân quyền, con cũng sẽ tập ngồi như thế. Con nguyện sẽ không tới ngồi trong quán rượu, nơi dâm phòng, chốn bài bạc, nơi người ta đang nói điều thị phi, trừ khi con có đại nguyện đi tới những nơi ấy để độ người.

Con nguyện sẽ ngồi như đức Thế Tôn và ngồi cho đức Thế Tôn, người đã sinh ra con trong đời sống tâm linh này. Con ý thức được rằng nếu mọi người trên thế gian đều có khả năng ngồi yên thì hòa bình và hạnh phúc sẽ chắc chắn đến với trái đất.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống trước đức Thế Tôn và trước Tôn giả Baddhiya, người đã thưởng thức niềm hỷ lạc thật sự trong khi ngồi thiền. (C)

Chánh niệm trong mọi sinh hoạt hàng ngày

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, trong thời gian hóa thân Thích Ca Mâu Ni của Ngài còn tại thế, đức Thế Tôn đã để hết cuộc đời để làm việc độ sinh. Hồi ấy không có máy bay, tàu thủy, xe lửa hay xe buýt. Vậy mà đức Thế Tôn đã có mặt nhiều lần trong bao nhiêu quốc gia miền lưu vực sông Hằng. Đức Thế Tôn đã chỉ đi bộ. Mà bước chân nào Ngài cũng đi trong chánh niệm. Ngài đem tới mọi nơi năng lượng vững chãi và thảnh thơi của Ngài. Ngài đã thực tập phép hiện pháp lạc trú trong bốn mươi lăm năm hành đạo và hóa độ. Ngài đã độ từ vua quan, tướng lãnh, đạo sĩ, thương gia, trí thức, phú hộ, nông dân cho đến tướng cướp, gái làng chơi và người đổ thùng. Sự nghiệp của Ngài rất vĩ đại và đã được tiếp nối lâu dài trong tương lai. Chúng con là đệ tử của Ngài, chúng con nguyện hết lòng thực tập để tham dự vào sự nghiệp ấy. Chúng con nguyện học theo phép hiện pháp lạc trú, không những có hạnh phúc trong lúc thực tập thiền ngồi, thiền đi, nói năng, lắng nghe, ăn cơm trong chánh niệm mà còn trong lúc làm việc nữa. Chúng con nguyện thực tập chánh niệm trong lúc nấu cơm, giặt áo, quét sân, trồng rau, lái xe, đi chợ, đi làm, sản xuất và tiêu thụ. Trong khi lái xe, con sẽ không để tâm suy nghĩ đến chuyện quá khứ và tương lai hoặc để những dự án hay những niềm lo lắng kéo con đi. Con theo dõi hơi thở để thấy rằng ông nội con cũng đang lái xe với con, dù ngày xưa ông nội chưa từng biết lái xe. Con thấy ông nội con trong con một cách rõ ràng và con có thể nhìn với mắt của ông nội con để quán sát. Con cũng có thể thấy đức Thế Tôn đang lái xe cho con, và Thế Tôn lái xe rất chánh niệm. Mỗi khi dừng lại ở đèn đỏ, con nhìn đèn đỏ mỉm cười, dựa lưng vào ghế, buông thư và trở về với hơi thở. Đèn đỏ như một tiếng chuông chánh niệm nhắc con trở về với giây phút hiện tại. Con mỉm cười và biết ơn đèn đỏ như một người bạn tu nhắc con trở về chánh niệm. Khi đường kẹt xe, con sẽ biết thở và mỉm cười, thực tập đã về, đã tới. Sự sống có mặt trong giây phút hiện tại, mỗi hơi thở của con đưa con về giây phút hiện tại để tiếp xúc với sự sống. Con biết lái xe như vậy con không bị căng thẳng mà lại có niềm vui và cơ hội quán chiếu. Khi có người khác lái xe cho con, thì ngồi trên xe con cũng thực tập như thế. Con theo dõi hơi thở và có cơ hội tiếp xúc với đồng ruộng, đồi nương hay sông biển bên ngoài. Con sẽ tìm cách khéo léo nhắc người lái xe và những người khác ngồi trong xe thực tập với con, để cho trong suốt chuyến đi chúng con có dịp chế tác được chánh niệm, chánh định và niềm vui. Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, và hơi thở chánh niệm mang chúng con về lại với giây phút này để tiếp xúc thật sự với những mầu nhiệm của sự sống, để thực tập được hiện pháp lạc trú như đức Thế Tôn.

Địa Xúc

Con xin cung kính lạy xuống trước đức Thế Tôn, bậc tỉnh thức toàn vẹn, và trước Tôn giả Ca Diếp, người đã tiếp nhận pháp nhãn từ đức Thế Tôn. (C)

Làm bếp trong chánh niệm

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con đã thấy trong nhà bếp có hình của sứ giả Giám Trai[1]. Mỗi khi bắt đầu làm bếp, con đốt một cây hương để khởi đầu cho một buổi thực tập nấu cơm trong chánh niệm, và nhà bếp cũng trở thành một thiền đường ấm áp của con. Con sẽ sắp đặt để con có thể có đủ thì giờ mà nấu cơm trong sự ung dung, không cần hấp tấp. Cho nước chảy vào chậu rửa rau, con quán chiếu về nước để thấy được tính nhiệm mầu của nước. Con thấy được nước từ nguồn suối cao hay từ lòng đất sâu đã chảy về tới tận nhà bếp của con. Con biết trên trái đất có những vùng thiếu nước và dân chúng phải đi nhiều cây số dưới nắng nung người mới gánh được một gánh nước đem về. Ở đây, nước có mặt bất cứ lúc nào con vặn vòi nước. Khi nước bị cắt trong vài giờ đồng hồ con đã thấy lúng túng. Cho nên con biết trân quý nước. Con cũng biết trân quý điện, điện để thắp đèn hoặc để đun nước. Con chỉ cần ý thức là đang có nước, đang có điện là niềm vui của con được phát hiện ngay. Nhìn trái cà chua, nhìn củ cà rốt, nhìn miếng đậu hũ con cũng có thể quán chiếu để thấy được sự mầu nhiệm của chúng và cội nguồn của chúng. Pha trà, con có thể quán chiếu để thấy được những đồi trà trên cao nguyên miền Bắc hoặc những dãy đồi mù sương ở miền Trung.

Khi xắt gọt, xào nấu, con cũng sẽ làm trong chánh niệm và với tình thương. Con biết nếu con làm việc trong tình thương thì con sẽ không mệt mỏi. Còn nếu con nghĩ rằng mình đang bị bắt buộc nấu bếp cho người khác thì con sẽ mất hết niềm vui. Được nấu cơm nuôi sống tăng thân hay gia đình, đó là một hạnh phúc. Con ý thức rằng năng lượng của tình thương chế tác được trong khi con đang nấu ăn đi thẳng vào những món ăn mà con nấu. Con hứa sẽ không nói chuyện trong nhà bếp, nhất là không nói những chuyện thị phi không dính líu gì hết tới việc làm hạnh phúc cho tăng thân. Con sẽ làm việc im lặng với những người khác nhưng mỗi chúng con đều có thể làm trong chánh niệm, tình thương và niềm vui.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy trước Bồ tát sứ giả Giám Trai để Bồ tát chứng minh cho con trong sự phát nguyện thực tập này. (C)

[1] Bồ tát ở nhà trù (nhà bếp) của mỗi tu viện hay chốn già lam để trông nom việc ăn uống cho chúng tăng.

Ăn cơm với lòng biết ơn

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, mỗi khi ngồi xuống ăn cơm, con xin nguyện làm phát khởi niềm biết ơn trong con. Con biết giờ ăn cơm cũng là giờ thiền quán, và trong khi ăn cơm không những con nuôi dưỡng hình hài con mà còn nuôi dưỡng tâm thức con. Trong khi chắp tay, con theo dõi hơi thở để đưa thân tâm về một mối, và trong trạng thái thanh thản và chú tâm ấy, con sẽ nhìn vào các thức ăn trên bàn hoặc trong bát con. Con quán niệm:

Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời, của muôn loài và công phu lao tác.

Dù con là người cư sĩ, mỗi ngày đi làm để có tiền lương mua gạo và thức ăn cho con và cho gia đình, thì con cũng không nghĩ rằng cơm này là của con, do con làm ra. Con nhìn vào bát cơm, và thấy rất rõ đó là tặng phẩm của đất trời. Ruộng lúa, vườn rau, nắng, mưa, phân bón và sức lao động của người nông dân là những gì con thấy khi con nhìn vào thức ăn. Con có thể nhìn thấy đồng lúa xanh, người thợ gặt, người xay lúa, người nấu cơm. Con có thể thấy những hạt đậu gieo xuống đất để trở thành cây đậu. Con có thấy được vườn táo, vườn mận, vườn cà chua và những người thợ đang làm việc trong ấy. Con có thể thấy những con ong con bướm đi từ chiếc hoa này tới chiếc hoa khác. Con thấy muôn loài trong vũ trụ đã góp sức để làm ra trái táo hoặc trái mận con đang cầm trong tay, hoặc đọt rau luộc mà con đang chấm vào chén nước tương.

Con thấy mưa và mặt trời. Mặt trời không chỉ ở trên trời mà còn ở dưới đất, ở trong con và ở muôn loài nữa. Ánh nắng mặt trời sưởi ấm đất Mẹ và nhờ có ánh nắng mặt trời mà đất Mẹ mới tạo nên sự sống. Nếu mặt trời biến mất thì tất cả sự sống trên trái đất đều phải chấm dứt. Lòng con tràn đầy sự biết ơn, và cũng tràn đầy hạnh phúc. Trong khi nhai cơm và thức ăn, con nuôi dưỡng ý thức và hạnh phúc ấy mà không để tâm vướng bận vào chuyện quá khứ, chuyện tương lai hay vào những lo toan dự tính. Mỗi miếng cơm con ăn nuôi dưỡng con, tổ tiên con đang có mặt trong con và con cháu con đã có mặt trong con.

Ăn cơm trong bản môn

Nuôi sống cả tổ tiên

Mở đường cho con cháu

Cùng tìm hướng đi lên.

Con nuôi dưỡng con bằng đoàn thực và bằng xúc thực. Đoàn thực là cơm và thức ăn đem cho cơ thể con chất dinh dưỡng, xúc thực là niềm vui và lòng từ bi mà con tiếp xúc được trong khi ăn.

Ăn trong chánh niệm, chế tác được lòng từ bi, sự thảnh thơi và niềm vui như thế, con nuôi dưỡng được cả tăng thân con và gia đình con.

Xin nguyện ăn trong chánh niệm để xứng đáng thọ nhận thức ăn này.

Là người xuất gia, nhìn vào thức ăn, con cũng thấy thức ăn là tặng phẩm của cả đất trời, là công phu lao tác, là phẩm vật cúng dường của người áo trắng và cũng là cơm của Bụt cho con ăn. Ngày con xuất gia, Bụt cho con một chiếc bình bát và Bụt dạy có bình bát này thì con không còn sợ đói nữa nếu con tu tập cho nghiêm chỉnh. Vì vậy mỗi khi ăn cơm xong cầm bình bát hướng về Ngài con cũng dâng lời cảm tạ: “Cám ơn Bụt đã cho con ăn cơm.” Khi con nói câu này lòng con tràn đầy niềm biết ơn. Biết ơn Bụt tức là biết ơn trời đất, vạn vật và công phu lao tác của nhiều người, trong đó có người sáng nay đã nấu cơm cho con ăn.

Khi ăn, xin nhận diện và chuyển hóa những tâm hành xấu, nhất là tâm tham ăn.

Con biết ăn uống không có chừng mực, ăn quá nhiều thì có hại cho sức khỏe và cho sự tu tập của con. Khi sắp hàng lấy thức ăn hoặc khi sớt thức ăn vào bát, con xin nhớ thực tập điều này. Là người xuất gia, con biết cái bình bát của con là ứng lượng khí, và con tập chỉ lấy lượng thức ăn vừa đủ cho con thôi, không vì thấy thức ăn ngon mà lấy nhiều hơn…

Địa Xúc

Cho con xin lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn, bậc xứng đáng được cúng dường, để cảm tạ đất trời, vạn vật, và mọi loài chúng sanh và để con nuôi lớn được hạnh phúc trong con. (C)

Ăn cơm với Bụt, với Tăng thân

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, trong khi ăn con còn tự căn dặn mình là chỉ nên ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh. Con đã có kinh nghiệm về sự thật “bệnh tùng khẩu nhập”, vì vậy khi đi chợ, khi nấu và khi ăn con biết con phải phát khởi chánh niệm để đừng đưa vào cơ thể những thức ăn có thể tạo ra sự nặng nề và bệnh tật, dù những thức ăn ấy rất hấp dẫn đối với con. Dù chúng có ngon mấy mà chúng không lành thì chúng con cũng sẽ không ăn. Ăn những thức ăn ấy vào, chúng con sẽ đày đọa cơ thể chúng con và làm cho tổ tiên và con cháu trong con nặng nề và bị đày đọa.

Bạch đức Thế Tôn, trong khi ăn cơm con cũng quán chiếu rằng đời sống của con có một mục đích, đó là tu học để chuyển hóa phiền não và độ thoát cho đời. Rồi con tiếp nhận thức ăn với ý thức ấy. Vì muốn đi tới trên con đường thực tập hiểu và thương, nên con tiếp nhận thức ăn này với lòng biết ơn.

Kính bạch đức Thế Tôn, được ngồi ăn cơm trong tăng thân để nuôi dưỡng hạnh phúc và từ bi như thế, con rất trân quý giờ phút của những bữa ăn. Con ngồi rất thẳng, rất thoải mái, và con tập ăn như thế nào để có hạnh phúc và thảnh thơi trong khi ăn. Con ăn chậm rãi, con biết con đang ăn gì, và con nhai kỹ thức ăn, thường là con nhai tới ba mươi lần đến khi thức ăn trở thành chất đề hồ thật ngon ngọt con mới nuốt. Thỉnh thoảng con dừng lại và tiếp xúc với gia đình tâm linh hay gia đình huyết thống có mặt quanh con. Năng lượng chánh niệm và chánh định hùng hậu của tăng thân đang bảo hộ và nâng đỡ con, trong khi ăn con cũng chế tác năng lượng niệm và định để nuôi dưỡng tăng thân.

Con biết đức Thế Tôn đã ngồi ăn như thế với tăng đoàn nguyên thủy, và chắc chắn là các vị xuất gia ngày xưa đã có rất nhiều hạnh phúc được ngồi ăn cơm với Thế Tôn, dù ở trên núi Linh Thứu, trong vườn Trúc Lâm, ở tu viện Cấp Cô Độc hay tại rừng Đại Lâm gần thành phố Vaisali. Con biết ngày hôm nay trong khi ngồi ăn cơm với đại chúng, nếu con có đủ niệm và định thì con cũng thấy được là con đang được ngồi ăn cơm với đức Thế Tôn, và con thấy đức Thế Tôn đang nhìn con mỉm cười. Là người xuất gia, con xin hứa với Thế Tôn là con sẽ chỉ ăn cơm với đại chúng để sự thực tập của con được vững chãi, con nguyện tránh việc ăn riêng trong phòng và ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng. Dù tăng thân cho phép con ăn riêng vì có bệnh hoặc có công tác đi xa không về kịp, con cũng sẽ thực tập ăn trong chánh niệm giống như ăn với đức Thế Tôn và với tăng thân.

Con xin hứa với đức Thế Tôn là con sẽ bỏ thói ăn vặt, mỗi khi thấy có phiền não như cô đơn hay lo lắng trỗi dậy, con sẽ thực tập hơi thở chánh niệm để nhận diện và ôm ấp chúng mà không tìm tới tủ lạnh, lấy thức ăn để che lấp sự trống trải hoặc lo lắng trong con.

Địa Xúc

Con xin phép đức Thế Tôn cho con lạy xuống ba lạy để sám hối những lỗi lầm về ăn uống mà con đã phạm, và phát nguyện rằng con sẽ ăn uống theo lời đức Thế Tôn chỉ dạy để làm gương cho đàn con cháu của chúng con. (C)

Ở nhà Như Lai

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con không biết nhờ phước duyên nào mà kiếp này con đã được may mắn làm đệ tử đức Thế Tôn và tham dự vào sự nghiệp của Ngài. Con biết gia đình tâm linh của con rất lớn, có các vị Bồ tát, các vị Thánh tăng và biết bao nhiêu thế hệ Phật tử xuất gia cũng như tại gia đang có mặt trên khắp thế giới. Con biết được sinh ra trong đạo pháp của đức Như Lai thì con được ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ăn cơm Như Lai và làm những công việc mà Như Lai đang làm. Con xin nguyện sống như thế nào mà trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày con thấy được rằng con đang được ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ăn cơm Như Lai và làm công việc của Như Lai giao phó.

Con biết là mỗi khi con ngồi cho có chánh niệm, lưng thẳng, thân và tâm thoải mái, có nụ cười tỉnh thức trên môi là con đang ngồi trong nhà Như Lai. Không những khi ngồi trong thiền đường con mới ngồi trong nhà Như Lai mà khi ngồi ở lớp học, công viên, sân ga, trong một buổi họp, trong lúc sử dụng máy vi tính hay lái xe, con cũng có thể ngồi trong nhà Như Lai. Nếu con biết cách ngồi thì ngồi ở đâu con cũng ngồi trong nhà Như Lai. Mỗi khi con trở về với hơi thở, chế tác được niệm và định trong khi thở thì con được nuôi dưỡng bởi năng lượng an lạc, khi ấy là con đang ở trong nhà Như Lai. Đi đâu mà bước những bước chân vững chãi, thảnh thơi và an lạc là con cũng đang đi qua lại trong nhà Như Lai. Làm bếp, giặt áo, dọn dẹp, con cũng không ra khỏi nhà Như Lai. Là người tại gia hay người xuất gia con cũng có quyền sống hai mươi bốn giờ một ngày trong nhà Như Lai.

Áo của con, dù không phải áo tăng già lê hayáo tràng, cũng là áo của Như Lai. Con mặc áo chánh niệm, con mặc áo trì giới, con mặc áo tam quy, con mặc áo của nếp sống đơn giản và khiêm cung, đó là con mặc áo Như Lai. Không có thứ áo nào mặc đẹp và ấm bằng áo của Như Lai.

Mỗi khi con ăn cơm, con làm phát hiện tâm hành của sự biết ơn, con nuôi dưỡng được đức Thế Tôn trong con, con nuôi dưỡng được thầy và tăng thân con trong con, con nuôi dưỡng được tổ tiên cha mẹ con trong con, đó là con đang ăn cơm Như Lai. Ăn cơm Như Lai con nuôi dưỡng được cả thân và cả tâm cho con và cho các thế hệ đi trước cũng như cho các thế hệ sau con. Ngồi thảnh thơi, và ăn trong chánh niệm là con được Thế Tôn nuôi dưỡng và con cũng đang nuôi dưỡng Thế Tôn và cả gia đình tâm linh lẫn huyết thống của con.

Là người xuất gia, con biết rằng từ giờ phút con tiếp nhận ba y và một chiếc bình bát là con sẽ không còn sợ đói, sợ lạnh và sợ không có nhà để ở, tại vì con đã được chấp nhận vào ở nhà Như Lai, để được mặc áo Như Lai và ăn cơm Như Lai. Con biết nếu con chấp trì giới luật và uy nghi, thì tứ chúng sẽ nuôi con, cho con cơm ăn, cho con áo mặc, tại vì con đã được chấp nhận là con của đức Như Lai, và con không còn lo sợ đói, sợ rét và tứ cố vô thân.

Con biết chừng nào con còn biết ơn thì chừng đó con còn có hạnh phúc. Con biết ơn vì con đã được hạnh ngộ tam bảo và được Tam bảo cứu vớt, nuôi dưỡng và che chở. Con biết ơn cha mẹ, ơn thầy, ơn bè bạn, ơn chúng sinh. Con biết ơn tất cả những ai đã tạo cho con khung cảnh và điều kiện để con có thể tu tập, chuyển hóa, độ người và giúp đời. Con nguyện sống tinh cần và tỉnh thức để luôn luôn nhớ rằng con là kẻ may mắn và con đang có rất nhiều điều kiện thuận lợi để tu tập và để có hạnh phúc. Con xin thực tập để ý thức biết ơn được thắp sáng trong con, để con đừng bao giờ trở nên kẻ vô ơn, bạc bẽo, chỉ biết bất mãn và chê trách mà không thấy được những điều kiện của hạnh phúc mà con đang có. Con nguyện không bao giờ dám quên công ơn cha mẹ, công ơn thầy tổ, công ơn bằng hữu và mọi loài chúng sanh. Chánh niệm giúp cho con biết ơn, giúp cho con nhớ rằng con không phải là người vô ơn bất nghĩa, và giúp cho con tiếp tục sống hạnh phúc trong từng giây phút của đời sống hàng ngày.

Địa Xúc

Xin đức Thế Tôn, bậc hiểu thấu thế gian, các vị thánh tăng và tổ tiên chứng minh cho con trong khi con lạy xuống ba lạy. (C)

Học với mục đích tu tập giải thoát

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, chúng con là những người ham học, nhưng nhiều khi chỉ lo học để tìm danh kiếm lợi, mong đạt tới những địa vị trong xã hội chứ không phải để khai thông tâm trí và tìm kiếm những pháp môn tu tập có thể chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau trong tự thân và ngoài xã hội. Có những người trong chúng con chỉ học vì bằng cấp, có những người chỉ học để có khả năng đàm thuyết và tự chứng tỏ mình là người học rộng biết nhiều. Chúng con đã từng thấy nhiều vị nói thao thao bất tuyệt về những giáo lý thậm thâm trong kinh điển, về những hệ phái tư tưởng trong Phật giáo, về vô ngã, vô thường, từ bi, giải thoát, nhưng những vị này vẫn sống trong cố chấp, trong giận hờn, trong tự hào, trong ganh tỵ, không có khả năng lắng nghe và sử dụng ái ngữ, không có khả năng chuyển hóa những phiền não trong tự tâm và lại còn gây ra nhiều khổ đau cho kẻ khác.

Bạch đức Thế Tôn, con không muốn học như họ. Con muốn nghe lời Thế Tôn, học giáo lý của Ngài chỉ vì mục đích là thực hiện giải thoát, chuyển hóa phiền não, và chế tác hiểu biết và thương yêu, như Ngài đã dạy trong nhiều kinh văn. Trong kinh Người Bắt Rắn, Ngài đã dạy rằng không nên học giáo lý với chủ ý tranh luận hơn thua mà phải học với mục đích tu tập giải thoát. Con nguyện mỗi khi học hỏi kinh điển, nhất là các kinh luận đại thừa, con sẽ luôn luôn đặt câu hỏi: “Những giáo lý thậm thâm trong này có liên hệ gì tới những khổ đau đang có mặt trong con và trong cuộc đời không? Con phải học như thế nào để có thể đem áp dụng những lời dạy trong này vào sự thực tập chuyển hóa các phiền não và khó khăn trong hiện tại?”

Đức Thế Tôn đã dạy là người tại gia, chúng con cũng có thể tu tập để giải thoát sinh tử, đạt tới vô sinh, nếu chúng con biết sắp xếp đời sống hàng ngày để có thời giờ tu tập. Con nguyện trong những buổi pháp đàm, con sẽ cố gắng lắng nghe những kinh nghiệm của người khác và khi cần chia sẻ, con sẽ không tìm cách phô trương kiến thức của mình, không bị vướng vào các cuộc tranh luận, mà chỉ trình bày kinh nghiệm tu học của bản thân con dưới ánh sáng của những giáo lý mà con đã được học được nghe.

Bạch đức Thế Tôn, là người xuất gia, chúng con nguyện học hỏi và thực tập để trở thành một vị đạo sư đích thực có khả năng độ đời và giúp người. Con biết có nhiều người đã học xong chương trình cao cấp Phật học hoặc tiến sĩ Phật học, nhưng những kiến thức của họ về Phật giáo đã không giúp được gì cho họ trong sự chuyển hóa phiền não và kiến tạo an lạc. Con nguyện học hỏi những gì có thể áp dụng vào việc tu tập hàng ngày trước, và những gì con học hỏi sau đó cũng sẽ có công năng soi sáng cho sự thực tập hành đạo của con. Con không muốn học để chỉ trở thành một nhà học giả thâm uyên. Chỉ khi nào con nắm vững được nội minh thì con mới bắt đầu học thêm về tâm lý học, khoa học, lịch sử tư tưởng con người và các nền văn minh trên thế giới. Biết rằng học những môn này có thể giúp con trình bày, giảng dạy Phật học một cách khế cơ và hữu hiệu hơn trong thế giới ngày nay. Con muốn học để chuyển hóa phiền não cho con, và để có kinh nghiệm mà giúp người khác chuyển hóa phiền não của họ. Con biết có như thế thì con mới tiếp nối được sự nghiệp của đức Thế Tôn.

Địa Xúc

Trong quá khứ có khi con đã đi lầm hướng trong bước đường học hỏi. Giờ đây để phát nguyện trở lại đúng con đường mà đức Thế Tôn đã chỉ bày, con xin lạy xuống trước đức Thế Tôn, bậc hiểu thấu thế gian. (C)

Con xin lạy xuống trước đức Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (C)

Con xin lạy xuống trước Tôn giả Khải Giáo A Nan Đà. (C)

Đừng chạy trốn trước khổ đau

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con thường có khuynh hướng nhìn sự vật một cách lưỡng nguyên: Khổ là xấu và hạnh phúc là tốt. Con đã từng tìm cách trốn chạy thế giới khổ đau và mơ tưởng đến một cõi Tịnh độ, nơi hoàn toàn chỉ có hạnh phúc. Giờ đây, con đã được học về sự thật của tương tức, con đã hiểu được rằng đi tìm một thế giới nơi chỉ có hạnh phúc là một ảo tưởng. Làm sao có thể tìm ra một nơi chốn mà chỉ có hạnh phúc và không có khổ đau? Điều này cũng giống như đi tìm kiếm cái cao mà không có cái thấp, mặt trái mà không có mặt phải. Điều này không bao giờ xảy ra được. Con biết rất rõ rằng không bao giờ có thể trồng sen trên cẩm thạch, mà chỉ có thể trồng sen trên bùn. Một người làm vườn khéo léo luôn biết tận dụng rác bẩn và thối để làm ra phân bón, để trồng hoa, củ quả và trái cây ngon ngọt.

Bạch đức Thế Tôn, như một người làm vườn giỏi, biết khai thác rác hữu cơ, con muốn học hỏi từ những khổ đau của con trong quá khứ để tạo dựng hạnh phúc cho con. Tâm con giống như đất, sự thực tập của con là những dụng cụ làm đất, và khổ đau trong quá khứ của con là phân bón. Nếu con khéo léo, con có thể chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc, và con tin chắc rằng con có thể làm được điều này. Chỉ cần nhớ lại những ngày tháng đói khổ là con cảm thấy hạnh phúc mỗi khi ngồi vào bàn ăn. Chỉ cần nhớ lại những giây phút bị cơn đau răng hành hạ là con cảm thấy tràn đầy lòng biết ơn trong giây phút này khi không bị đau. Khổ đau trong quá khứ của con được dùng làm nền để cho hạnh phúc được hiện rõ. Mỗi lần con thong thả nhìn sâu vào khổ đau của con trong hiện tại, sự hiểu biết của con lớn lên thêm và tim con có thêm từ bi. Sự hiểu biết và lòng từ bi này giúp con kết nối được với người khác để thoát ra khỏi sự biệt lập trong ngục tù khổ đau của con. Nhờ vậy mà con hiểu được lợi ích của khổ đau khi con biết học hỏi từ chúng. Con không còn sợ khổ và không trốn chạy khổ đau nữa. Con không còn mơ mộng đến một Tịnh độ nơi chỉ có hạnh phúc, cho con, cho các con của con và những người thân. Vắng khổ đau, làm sao trái tim con biết mở ra cho sự hiểu biết và tình thương? Con biết rất rõ rằng hai yếu tố này là nền tảng của hạnh phúc chân thật. Tịnh độ của con không phải chỉ được làm bằng sen hay cúc, mà cũng được làm bằng bùn và phân bón, để nuôi rễ sen và rễ cúc. Con hiểu rằng bản tánh của mọi hiện tượng là tương tức, kể cả sống và chết. Sống chết duyên sinh với nhau: cái này có vì cái kia có.

Địa Xúc

Xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống ba lạy trước đức Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. Con xin hứa với Ngài rằng con sẽ duy trì định tương tức trong đời sống hằng ngày của con, để con có thể cắt đứt được phiền não như Ngài. (C)

Duy trì định vô thường

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con xin sám hối với ThếTôn về những lỗi lầm của con về lề lối tư duy. Tuy con đã được dạy về tính cách vô thường của vạn vật, và tuy chính con cũng đã từng giảng giải một cách hùng biện về tính vô thường của vạn vật, con vẫn có thói tật hành xử như sự vật là thường. Có những lúc con biết là hình hài con vô thường, các tế bào trong cơ thể con sinh diệt không ngừng, nhưng con vẫn tưởng con là con, con hôm nay vẫn còn là con hôm qua. Đứng về phương diện cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức cũng thế. Trong khi chúng biến chuyển không ngừng con lại có cảm tưởng chúng vẫn là chúng, ngày hôm nay chúng cũng còn y hệt như ngày hôm qua. Trí năng của con có khả năng nhận diện tính vô thường của vạn vật, có thể thấy được rằng năm dòng sông hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức đêm ngày tuôn chảy và chuyển biến. Và con không bao giờ có thể tắm hai lần trong một dòng sông, vậy mà con cứ có tập khí hành xử như hình hài con vẫn là hình hài con mười năm trước đây và trong con có một cái ta trường cữu, một linh hồn bất diệt. Con biết, tin rằng có một linh hồn bất diệt là một tà kiến căn bản, là nền tảng của bao nhiêu nhận thức sai lầm và khổ đau, nhưng vì tập quán quá sâu dày nên con cứ có khuynh hướng hành xử như con là một linh hồn bất tử. Con biết cái ngã chấp âm thầm ngủ yên trong chiều sâu tâm thức của con rất là sâu nặng. Bởi vì trong đời sống hàng ngày con không chuyên cần thực tập để nhận diện nó trong từng phút từng giây, cho nên con mới dễ bị nó lôi kéo đi. Con rất hổ thẹn.

Con xin hứa với đức Thế Tôn là từ nay trở đi,hàng ngày khi con tiếp xúc với tự thân hoặc sự vật quanh mình, con sẽ thắp sáng ý thức vô thường và nuôi dưỡng cho tuệ giác vô thường được sống mãi trong con, trong từng giây từng phút. Con biết cái kiến thức về vô thường không đủ để chuyển hóa khuynh hướng ngã chấp trong con, chỉ có tam muội vô thường duy trì vững chãi trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày mới đủ sức chuyển hóa được tùy miên chấp ngã ấy.

Kệ Vô Thường

Ngày nay đã qua

Đời sống ngắn lại

Hãy nhìn cho kỹ

Ta đã làm gì?

Đại chúng hãy cùng tinh tấn thiền tập hết lòng

Sống cho sâu sắc và thảnh thơi

Hãy nhớ vô thường

Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.

Địa Xúc

Con xin Thế Tôn cho con lạy xuống ba lạy để quán chiếu thêm về lời phát nguyện này. (C)

Buông bỏ tri giác sai lầm

Khải Bạch

Kính bạch đức Thế Tôn, nhờ thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm, con nhận diện được những gì đang xảy ra chung quanh con và con cũng nhận diện được những tâm hành đang biểu hiện trong con. Con biết con còn mang trong chiều sâu tâm thức con những vết thương của tổ tiên và của cha mẹ con để lại, và những vết thương đã được gây ra từ những năm con còn thơ ấu cho đến bây giờ. Có lúc những cảm thọ và những cảm xúc đau buồn trỗi dậy trong con, nếu con không biết cách nhận diện, ôm ấp và làm cho chúng lắng dịu xuống, thì con có thể nói những lời và làm những điều gây đổ vỡ trong gia đình hay trong đoàn thể con, và như vậy là con lại gây thêm đổ vỡ trong chính bản thân con nữa. Con xin nhớ lời đức Thế Tôn chỉ dạy, thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm để chế tác thêm năng lượng trong đời sống hàng ngày. Với năng lượng đó con có thể nhận diện các cảm thọ và cảm xúc đau buồn trong con và làm cho chúng lắng dịu xuống. Con biết là con không nên đè nén và đàn áp những cảm thọ và cảm xúc ấy mỗi khi chúng trào lên, bởi vì làm như thế chỉ làm cho tình trạng càng khó hơn.

Nhờ đức Thế Tôn chỉ dạy, con biết các cảm thọ và cảm xúc ấy một phần lớn đều phát sinh từ tri giác và nhận thức hạn hẹp của con. Con có những ý niệm sai lầm về con và về người khác, con có những ý niệm về hạnh phúc và về khổ đau mà con không buông bỏ được cho nên con khổ. Con đã tự làm khổ con rất nhiều vì những ý niệm ấy. Ví dụ ý niệm cho rằng hạnh phúc và đau khổ là do bên ngoài đi vào chứ không phải là do tâm con tạo dựng. Cách nhìn, cách nghe, cách hiểu và cách phán xét của con đã làm cho con đau khổ và cũng đã làm cho những người thương của con đau khổ. Con biết rằng buông bỏ các ý niệm ấy đi thì con có nhiều cơ hội có hạnh phúc hơn. Một khi buông bỏ được ý niệm chật hẹp và tri giác sai lầm thì các cảm thọ và cảm xúc đớn đau sẽ không còn cơ sở để biểu hiện nữa.

Thế Tôn, con xin hứa với Ngài là từ nay trở đi con sẽ tập quán chiếu để thấy rằng phần lớn những khổ đau mà con gánh chịu đều phát xuất từ cách nhìn, cách thấy, cách hiểu của con, từ ý niệm và tri giác của con. Con sẽ không oán trách người khác nữa mỗi khi con khổ đau, mà con sẽ trở về với bản thân để nhận diện cội nguồn của những khổ đau ấy trong phạm vi ý niệm và tri giác của con. Con biết con còn rất nhiều vô minh, vì vậy cho nên nhận thức của con thường sai lầm. Thế Tôn gọi những tri giác sai lầm ấy là vọng tưởng. Vọng tưởng là nền tảng khổ đau. Con sẽ tập quán chiếu để buông bỏ vọng tưởng của con.

Lạy đức Thế Tôn, con cũng sẽ quán chiếu để giúp người khác buông bỏ vọng tưởng của họ để cho họ có thể vượt thoát khổ đau của họ. Con sẽ lắng nghe khổ đau của người khác để giúp họ nhận diện nguồn gốc của những khổ đau từ những tri giác sai lầm của họ. Con sẽ thực tập lắng nghe với tâm từ bi, để có thể hiểu và thương được họ mà không còn trách móc họ. Con cũng sẽ sử dụng những phương tiện khéo léo như nói lời ái ngữ để giúp cho họ thấy những khổ đau phát sinh từ cách họ nhìn, họ thấy, họ hiểu, dựa vào những ý niệm và tri giác của họ. Và khi họ thấy được như thế, họ sẽ không còn trách móc và oán hờn kẻ khác. Trái lại, họ sẽ thấy được rằng nếu buông bỏ những tri giác sai lầm trong họ thì họ sẽ có hạnh phúc và thảnh thơi.

Địa Xúc

Nam mô đức Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (C)

Nam mô đức Bồ tát lắng nghe Quan Thế Âm. (C)

Nam mô Tôn giả Đại Trí Xá Lợi Phất. (C)

Lắng nghe với tâm từ bi

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con biết là con phải có thời gian để thực tập lắng nghe theo hạnh đức Bồ tát Quan Thế Âm. Con đã nhận thấy là dù thiện chí lắng nghe của con có lớn cách mấy đi nữa, mà nếu trong khi lắng nghe, những tâm hành hờn tủi được đánh động, thì sự lắng nghe sẽ trở thành khó khăn. Có thể người kia chưa biết thực tập ái ngữ. Lời nói của người kia có thể còn mang chất liệu trách móc, phán xét và buộc tội, và vì vậy trong khi người kia nói, những hạt giống buồn giận, ganh tỵ và bực bội trong con được tưới tẩm và khi những tâm hành buồn giận, ganh tỵ và bực bội ấy phát khởi thì con sẽ đánh mất khả năng lắng nghe của con. Con biết trong trường hợp ấy, con sẽ không còn tiếp tục lắng nghe được nữa, cánh cửa trái tim của con sẽ khép lại và dù con không nói gì, người kia cũng sẽ có cảm giác là đang nói với một bức tường. Vì vậy cho nên nghe lời đức Thế Tôn, mỗi khi tâm hành bực bội và buồn giận nổi lên, con phải trở về hơi thở, thở thật nhẹ, để ôm lấy chúng và để tự nhắc nhở: “Mình lắng nghe đây là để cho người kia có dịp nói lên những đau khổ của họ, để giúp cho họ giải tỏa bớt năng lượng của sầu khổ, và sự thực tập lắng nghe của mình là một sự thực tập từ bi. Nếu mình không có từ bi trong trái tim mình trong lúc này thì mình đang không thực tập lắng nghe thực sự.” Thực tập như thế, giúp năng lượng từ bi phát hiện trở lại trong trái tim con, và con có thể tiếp tục thực tập lắng nghe.

Nếu con không thành công thì con phải xin lỗi người đang nói. Con sẽ nói: “Em xin lỗi anh, chị xin lỗi em, con xin lỗi mẹ, hôm nay con không được khỏe. Em sẽ xin tiếp tục lắng nghe anh, lắng nghe chị, con sẽ lắng nghe mẹ vào ngày mai.” Con xin hứa là con sẽ không để cho con rơi vào cái bẫy của sự thực tập hình thức. Con xin sám hối với đức Thế Tôn về những lần thực tập lắng nghe thất bại trong quá khứ, và nguyện sẽ lắng nghe hay hơn trong tương lai.

Địa Xúc

Xin Thế Tôn cho phép con lạy xuống ba lạy trước đức Bồ tát lắng nghe Quan Thế Âm. (C)

Thực tập chánh ngữ

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, trong bài pháp thoại đầu tiên mà đức Thế Tôn giảng cho năm thầy ở vườn Lộc Uyển, Thế Tôn có nói tới sự thực tập chánh ngữ, một trong tám phép thực tập gọi là Bát Chánh Đạo. Sự thực tập chánh ngữ của con còn đang yếu kém. Trong quá khứ có nhiều khi con đã dại dột nói ra những điều hoàn toàn không đúng với sự thực. Có thể con đã nói dối như vậy để che dấu những yếu kém của con, hoặc để tô điểm vào hình ảnh của con những cái đẹp mà chính con không có hoặc chưa có. Có khi con nói những điều ấy vì con sợ người ta chê bai hay phê phán con. Có khi con nói những điều ấy vì mục đích có thêm lợi lộc. Có khi con nói những điều ấy vì muốn chạy tội, vì tự hào, vì ganh tỵ, hay vì muốn người nghe con cũng ghét bỏ người mà con đang ghét bỏ hay ganh tỵ. Vì tri giác sai lầm, vì tư duy không chín chắn, và vì giận hờn, tự ái hay ganh tỵ, con đã nói những lời gây nên đổ vỡ, làm cho sự truyền thông giữa con và người khác trở nên khó khăn. Con biết khi sự truyền thông trở nên khó khăn hoặc bế tắc thì hạnh phúc không còn và khổ đau có mặt. Nhớ lại những giờ phút ấy con cảm thấy hổ thẹn, và con xin sám hối với đức Thế Tôn, nguyện từ nay về sau con không còn dại dột như thế.

Bạch đức Thế Tôn, con biết đức Thế Tôn đã để nhiều thì giờ để giảng dạy giáo pháp cho bốn chúng đệ tử. Những lời của Thế Tôn nói có công năng khai mở tâm trí người nghe, giúp họ buông bỏ những tri giác sai lầm, chỉ cho họ thấy con đường đi lên, úy lạo, vỗ về, cho họ thêm niềm tin và thêm năng lượng để đi tới. Có những lúc Thế Tôn ngồi yên mỉm cười không nói, không trả lời cả những câu người ta hỏi. Bởi vì Thế Tôn thấy rằng trong những lúc ấy, im lặng hùng tráng và im lặng sấm sét còn hùng biện hơn lời nói. Ước ao gì con cũng được như đức Thế Tôn, khi nào cần nói thì mới nói, khi nào cần im lặng thì im lặng. Con biết trong quá khứ con đã nói quá nhiều, con đã nói những điều không ích lợi gì cho con và cho những người nghe con, con lại đã nói những điều gây khổ đau cho người khác và cho cả con nữa.

Bạch đức Thế Tôn, con xin hứa với đức Thế Tôn là từ nay về sau, con sẽ tập nói ít lại. Con nguyện từ nay mỗi khi trong con có tâm hành bực bội, tự ái và ganh tỵ, con sẽ trở về với hơi thở chánh niệm để nhận diện những tâm hành bực bội, tự ái và ganh tỵ ấy mà không mở miệng nói năng. Khi được hỏi tại sao con không nói, con sẽ thành thật thú nhận rằng vì trong tâm con có sự bực bội, buồn chán hay ganh tỵ cho nên con sợ rằng nói ra sẽ gây đổ vỡ. Con xin được phát biểu trong một dịp khác, khi tâm con an tĩnh hơn. Con biết làm như thế là con bảo hộ được cho cả con và cho cả người kia. Con biết con cũng không nên đè nén những cảm xúc của con, vì vậy con sẽ sử dụng hơi thở chánh niệm để nhận diện và chăm sóc những cảm xúc ấy và tập nhìn sâu vào cội nguồn của chúng. Thực tập như thế, con có thể làm lắng dịu và chuyển hóa được những niềm đau nỗi khổ trong con.

Địa Xúc

Xin Thế Tôn cho phép con lạy xuống ba lạy để ghi nhớ thật kỹ càng những điều con vừa phát nguyện. (C)

Xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống trước Tôn giả mật hạnh La Hầu La. (C)

Thiết lập truyền thông

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con xin hứa là con sẽ cẩn thận để không nói ra một lời nào có thể gây nên sự bất hòa, sự rạn nứt hay tan vỡ trong đoàn thể tu học hay trong gia đình của con. Mỗi khi con có khó khăn với một thành phần trong gia đình hoặc trong tăng thân, con sẽ tìm mọi cách để hóa giải nội kết. Con sẽ không đi than phiền về người đó với các thành phần khác trong gia đình hay trong tăng thân. Con không muốn năng lượng buồn đau tiêu cực của con ảnh hưởng tới những thành phần khác của tăng thân, và làm cho năng lượng vui sống và tu học của họ đi xuống. Cũng bởi vì trong quá khứ con đã có khi vụng dại làm như thế, cho nên hôm nay con xin nhận diện những lỗi lầm đó, và xin lạy xuống trước Tam bảo để cầu xin sám hối, nguyện từ nay trở đi sẽ không còn lập lại những vụng dại và lầm lỡ của ngày qua.

Con biết là con có quyền và có bổn phận nói cho người thân của con nghe về những khó khăn và khổ đau của con, nhưng con phải chọn đúng nơi đúng lúc rồi con mới nói, và khi nói con phải sử dụng phép ái ngữ. Con xin hứa với đức Thế Tôn là trong khi nói, con sẽ nhớ rằng những lời con nói phải có tác dụng giúp người kia hiểu thêm về con và về người ấy, và những lời con nói không mang tính cách trách móc, phê phán, chê bai và hờn giận. Con không dùng ngôn ngữ của sự buộc tội và lên án. Con chỉ nói đến những khó khăn và đau khổ của con thôi và mong rằng người kia hiểu được những đau khổ và khó khăn ấy của con. Trong khi nói, con có thể giúp người kia buông bỏ những tri giác sai lầm của người ấy về con, điều này giúp được cho cả hai phía. Con cũng ý thức rằng có thể trong những lời con nói, có những điều đã phát sinh từ nhận thức sai lầm của con về bản thân con và về người ấy, và cầu mong nếu người ấy thấy được những nhận thức sai lầm ấy thì xin vui lòng chỉ bảo và soi sáng cho con.

Trong khi con nói, có thể là những vết thương trong con bị chạm tới và tâm hành buồn giận trong con phát khởi. Và con hứa sẽ ngừng nói và trở về theo dõi hơi thở, để nhận diện và mỉm cười với nó. Con sẽ xin phép người đang ngồi nghe cho con ngưng lại một vài phút. Chừng nào nhận thấy tâm con bình an trở lại, con mới tiếp tục thực tập nói ra những cảm nghĩ và nhận xét của con.

Trong khi người ấy nói thì con sẽ lắng nghe bình tĩnh với tâm không thành kiến. Con xin tập lắng nghe với tâm từ bi, với một mục đích duy nhất là để hiểu được người kia. Con biết rằng một khi con đã hiểu được người ấy thì con có thể chấp nhận và thương được. Trong khi nghe, nếu con nhận thấy có những điều người ấy nói không phù hợp với sự thật, con sẽ không cắt lời mà vẫn hết lòng lắng nghe để tìm hiểu lý do nào đã đưa tới những tri giác sai lầm ấy. Con đã làm gì và nói gì để người ấy hiểu lầm con như vậy. Và con sẽ hành xử như thế nào trong những ngày tới để giúp người ấy điều chỉnh nhận thức của họ.

Khi nghe người ấy nói xong, con sẽ chắp tay cám ơn người ấy đã soi sáng cho con, và hứa sẽ chiêm nghiệm lại cho sâu sắc về những điều người ấy nói. Lòng dặn lòng, trong tương lai sau khi đã quán chiếu kỹ lưỡng, con sẽ giúp người ấy buông bỏ những nhận thức sai lầm của người ấy về con và về chính người ấy.

Bạch đức Thế Tôn, con đã thấy nhiều người nhờ thực tập lắng nghe và ái ngữ mà đã hóa giải được nội kết, buông bỏ được hiểu lầm, tái lập được truyền thôngvà tìm lại được hạnh phúc. Con xin hứa với đức Thế Tôn rằng từ nay về sau con sẽ hết lòng thực tập ái ngữ và lắng nghe.

Địa Xúc

Xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống ba lạy trước Thế Tôn và trước đức Bồ tát lắng nghe Quan Thế Âm. (C)

Thực tập hoà giải

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con xin hứa với đức Thế Tôn là từ nay về sau con sẽ tập nói những lời có công năng hóa giải tranh chấp giữa con và người đối diện, giữa những thành phần của một gia đình hay một tăng thân, giữa những thành phần của một giống nòi, giữa những giống nòi của một dân tộc, và giữa những dân tộc trong cộng đồng quốc tế. Con sẽ không nói những lời có tính cách kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị quốc gia. Con xin thực tập nói lên được những cái hay, cái đẹp, cái dễ thương, cái tích cực, và những khó khăn khổ đau của các thành phần trong một cuộc tranh chấp. Như vậy giúp cho cả hai bên hiểu nhau hơn, có thể tới với nhau gần hơn, để hòa giải và chấp nhận nhau. Con xin nguyện sẽ không bao giờ nói lưỡi hai chiều để cho hai bên thù hận và xa cách nhau thêm.

Nếu có một người đến với con để than thở về những khổ đau của mình, nghĩ rằng những khổ đau ấy do một người khác gây ra, con sẽ xin tập ngồi lắng nghe để cho người ấy bớt khổ. Nếu con nhận thấy có những tri giác sai lầm trong những điều người ấy nói, con sẽ dùng những phương tiện khéo léo để giúp người ấy điều chỉnh được tri giác của mình và để cho người ấy bớt khổ ngay trong lúc đó. Và con sẽ nói cho người ấy nghe những khó khăn, những đau khổ, những điểm tích cực và dễ thương của người kia để người ấy hoặc nhớ lại hoặc nhìn nhận đó là những sự thật. Con cũng sẽ khuyên người ấy đi tới với người kia để ngồi lại với nhau và thiết lập lại truyền thông. Nếu cần, con sẽ tình nguyện đi với người ấy để yểm trợ cho người ấy có khả năng nói hết những gì mà người ấy chưa thể hoặc không thể nói ra được với người kia. Con sẽ tránh không liên minh với một người để chống lại một người thứ ba, để tạo thành một thế tam giác của sự tranh chấp, một hành động rất tai hại đe dọa hạnh phúc của gia đình hoặc của tăng thân con.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy trước Tôn giả Đại Trí Xá Lợi Phất và Tôn giả Đại Hiếu Mục Kiền Liên, hai vị anh lớn luôn đem sự hòa giải đến trong tăng đoàn của đức Thế Tôn. (C)

Nói lên niềm biết ơn

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, nuôi dưỡng tuệ giác vô thường, con thấy sự có mặt quý giá của những người con thương, từ cha, mẹ, thầy, bạn, anh em, chị em của con trong đời và trong đạo. Con biết người thương của con cũng vô thường như con, thành ra con trân quý sự có mặt của người ấy. Có những lúc con thất niệm và u mê cứ ngỡ rằng người con thương sẽ có mặt bên con suốt đời, và cứ có mặt như thế mãi, sẽ không bao giờ già, sẽ không bao giờ bệnh và sẽ không bao giờ vắng mặt trong cuộc đời của con. Vì vậy cho nên con đã không trân quý sự có mặt của người ấy, đã không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc nơi sự có mặt của người ấy mà còn nói năng và hành xử không dễ thương với người ấy, thậm chí còn muốn người ấy đừng có mặt trong những lúc con bực mình. Con đã từng làm cho người ấy khổ đau, chán nản, buồn tủi và giận hờn vì thái độ không biết trân quý của con. Người ấy có thể là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em, là thầy, là sư anh, sư chị, sư em của con, hay là người mà con đã cam kết làm bạn đồng hành. Con đã đối xử lạnh nhạt và tệ bạc với người ấy. Con xin thành tâm sám hối tội lỗi ấy của con với đức Thế Tôn.

Con xin hứa với đức Thế Tôn là con sẽ không làm như thế nữa. Con nguyện học nói những câu mà trong quá khứ vì thói quen, vì u mê, vì vụng về mà con chưa nói được. Con sẽ tập nói những câu như:

– Có cha còn sống bên con, con sung sướng quá.

– Có anh (chị) vững chãi bên em, em rất vui mừng.

– Có mẹ còn sống bên con, con thật có phúc đức lớn.

– Có em tươi mát bên anh (chị), anh (chị) thấy cuộc đời đẹp ra.

– Được nghe giọng nói quen thuộc của anh qua điện thoại, em rất hạnh phúc.

– Thấy thầy còn có mặt và còn bước đi được những bước chân vững chãi bên con, con thấy mình may mắn khôn cùng.

– Có sư em thông minh, tu học tinh tiến và có nhiều hạnh phúc, chị rất có niềm tin nơi tương lai đạo pháp.

– Mẹ ơi, mẹ có biết là mẹ đã trao truyền cho con bao nhiêu là đức hạnh, tài năng và từ ái của mẹ hay không?

– Con ơi, ba đã từng vụng về, đã từng có lúc không hiểu được những khó khăn và khổ đau của con cho nên ba đã nói và đã làm những điều khiến cho con đau khổ. Ba hối hận lắm, ba xin lỗi con, và hứa là sẽ không còn lập lại những vụng về ấy. Con hãy thương ba và hãy giúp cho ba thực hiện được lời hứa này, nghe con.

– Con rất trân quý những giờ phút được sống gần thầy, gần cha, gần mẹ, như trong giờ phút này. Con rất may mắn nên đến giờ này mà vẫn còn hưởng được diễm phúc ấy.

Bạch đức Thế Tôn, con xin nguyện sẽ tập nói lời ái ngữ, trước nhất là với những người con thương và sau đó với tất cả mọi người. Con cũng nhân cơ hội này để dâng lên Thế Tôn một vài lời. Nếu không có Thế Tôn, nếu không có diệu pháp của Thế Tôn giảng dạy, nếu không có tăng đoàn hành trì và bảo trì diệu pháp ấy, làm sao con có được ngày hôm nay? Chắc chắn trong những kiếp trước, con và tổ tiên con đã từng gieo trồng những hạt giống tốt, nên kiếp này con mới được hạnh ngộ Thế Tôn và đất tâm của con mới được tiếp nhận những hạt giống chánh pháp nhiệm mầu của Thế Tôn gieo rắc. Tuệ giác của đức Thế Tôn đã phá tan được bao nhiêu niềm lo sợ, bao nhiêu khối si mê trong con. Ơn đức của tuệ giác ấy dầu con có sống bao nhiêu vạn kiếp để đền bù con cũng không thể nào đền bù nổi.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy để dâng lên Thế Tôn niềm biết ơn sâu xa của con. (C)

Làm mới với tự thân

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, quá khứ còn lưu lại những vết thương trong thân tâm con, và khi thiết lập được thân tâm trong giây phút hiện tại thì con vẫn có thể tiếp xúc với quá khứ trong giây phút ấy. Những lỡ lầm, những khổ đau con đã từng gây ra trong quá khứ vẫn còn ghi dấu ấn trong con. Con có thể nhận diện chúng, mỉm cười với chúng. Và con phát nguyện là từ nay về sau, con sẽ khôn khéo không tư duy, không nói năng và hành xử như con đã từng tư duy, nói năng và hành xử, để không còn gây ra những lỗi lầm như trong quá khứ con đã gây ra.

Đức Thế Tôn đã dạy là tất cả đều do tâm, lỗi lầm do tâm tạo ra mà lỗi lầm cũng do tâm chuyển hóa. Một khi tâm con nhận diện được những dấu ấn của khổ đau, của lỗi lầm quá khứ đang có mặt trong hiện tại, mỗi khi tâm con phát nguyện không lập lại những khổ đau, những lỗi lầm ấy thì các vết thương trong con bắt đầu được chữa lành.

Bao nhiêu lầm lỡ cũng do tâm

Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm

Sám hối xong rồi, lòng nhẹ nhõm

Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.

Địa Xúc

Con xin được lạy xuống trước Tôn giả Bất Hại[1], người có khả năng chuyển hóa tận gốc hạt giống bạo động. (C)

Con xin lạy xuống trước đức Bồ tát Cầu Sám Hối. (C)

[1] Trước khi xuất gia, Tôn giả đã từng là một tên sát nhân nổi tiếng với tràng chuỗi đeo ở cổ kết bằng những ngón tay của những người mà anh ta đã hạ sát. Sau khi được gặp Bụt, tên sát nhân hối cải và xin được xuất gia. Nhờ quyết tâm tu học, Đại đức đã hoàn toàn lột xác, trở nên “hiền hơn cục đất”, đúng với tên mới của thầy là Ahimsaka, có nghĩa là bất hại.

Xin tham khảo thêm Đường Xưa Mây Trắng, chương 53 và 56, nhà xuất bản Phương Đông và Công ty Sách Phương Nam, 2017.

Xử lý năng lượng tình dục

Khải Bạch

Kính bạch đức Thế Tôn, trong quá khứ con đã không biết cách xử lý năng lượng tình dục của con, cho nên con đã tạo ra nhiều lầm lỡ. Con biết con người đã là một loài động vật thì năng lượng tình dục có mặt trong con là một điều tự nhiên. Nhưng tại vì trong quá khứ con chưa biết sống, chưa biết thực tập nên con đã để cho hạt giống của tình dục bị tưới tẩm quá nhiều. Con đã đọc những sách báo, xem những phim ảnh có nhiều hình ảnh khêu gợi và kích thích dục tình, cho đến nỗi đã có lúc con lao đao và mất hết bình an vì sự biểu hiện của năng lượng ấy.

Bạch đức Thế Tôn, con đã được dạy về sự thật thân tâm nhất như. Con biết rằng những gì xảy ra cho thân cũng là xảy ra cho tâm, cho nên con đã phát nguyện giữ gìn thân tâm con, không để cho những hạt giống dục tình bị tưới tẩm. Con nguyện từ nay trở đi con không đọc sách báo và xem phim ảnh kích động dâm tính, không nghe và không nói những câu chuyện về dâm dục, không sử dụng điện thoại và máy vi tính để tiếp xúc với những âm thanh và hình ảnh kích động dâm tính. Con nguyện không tiêu thụ rượu và các chất ma túy, những chất có thể làm mất đi sự sáng suốt nơi con, là chướng ngại lớn nhất để bảo hộ thân tâm con và bảo hộ cho người khác.

Ý thức rằng sự thực tập thủ dâm chỉ làm cạn khô nguồn suối thân tâm, con xin hứa với đức Thế Tôn là con sẽ không để cho con bị lôi kéo vào hành động đó. Con nguyện góp sức để vận động thắp sáng ý thức về những tai hại của sự kích động dâm tính.

Bạch đức Thế Tôn, con biết rằng dục tình gây ra khổ đau, trong khi đó tình yêu đích thực là một nguồn hạnh phúc. Con xin hứa với đức Thế Tôn con sẽ nuôi dưỡng đức từ, bi, hỷ và xả mỗi ngày để xây dựng hạnh phúc cho con, cho gia đình và cho những người xung quanh.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn để chiêm nghiệm và để làm vững bền thêm lời phát nguyện của con. (C)

Chuyển năng lượng tình dục thành chí nguyện độ đời

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp, chúng con đã vì vô minh che lấp tâm trí mà không thấy được rằng năng lượng ái dục nếu không được nhận diện và bảo hộ thì có thể gây ra tàn hại trong thân tâm, trong gia đình và xã hội. Vì vô minh, vì không biết phép thực tập bảo hộ thân tâm, vì không tạo được môi trường văn hóa và xã hội lành mạnh mà chúng con đã phạm giới tà dâm. Chúng con đã hiếp đáp, đã lạm dụng trẻ em và lạm dụng ngay cả con cháu của chúng con trong vấn đề tình dục. Chúng con đã gây đổ vỡ và khổ đau kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Chúng con hôm nay đã giác ngộ lỗi lầm, nguyện xin sám hối. Chúng con nguyện học hỏi và thực tập những pháp môn mà đức Thế Tôn đã chỉ dạy để nhiếp phục thân tâm, làm cho môi trường sống trở nên lành mạnh, đưa năng lượng thân tâm đi về hướng mở mang trí tuệ và từ bi và sử dụng năng lượng ấy để làm việc độ sinh giúp đời.

Chúng con biết trên thị trường, người ta làm giàu bằng cách bán dâm rất nhiều, không phải chỉ bằng thân xác mà còn bằng âm thanh, hình ảnh và dụng cụ. Hình ảnh khêu gợi dục tình đâu đâu cũng có mặt, trên sách báo, trên màn ảnh truyền hình, nơi rạp chiếu phim, nơi các hình quảng cáo, trong những cuốn băng, trên youtube và trong mạng lưới internet. Tuổi trẻ bây giờ đang là nạn nhân của thị trường ấy. Hạt giống tình dục bị tưới tẩm hàng ngày nhiều lần, và số lượng thanh niên thiếu nữ từ mười ba tuổi trở đi sa vào lưới cám dỗ của dục tình đã vượt quá mức báo động. Chúng con biết đây là một thảm họa cho người trẻ, biết dục tình mà chưa biết thương yêu. Những thiếu niên thiếu nữ này khi lớn lên sẽ không có cơ hội thấy được thế nào là tình yêu đích thực.

Chúng con nguyện làm tất cả những gì có thể làm để tạo ra môi trường sinh sống lành mạnh cho xã hội, nhất là cho các thế hệ trẻ. Chúng con biết rằng nếu tâm bồ đề và chí nguyện độ sinh của chúng con lớn mạnh thì hầu hết năng lượng của chúng con sẽ được dồn về hướng ấy. Và năng lượng tình dục của chúng con không còn đủ sức mạnh để gây tác hại cho chúng con và cho hoàn cảnh sinh hoạt của chúng con. Chúng con cầu xin đức Thế Tôn soi sáng thêm cho chúng con trong sự thực tập này.

Địa Xúc

Con xin thành tâm lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn và trước các vị thánh tăng qua các triều đại. Con xin đức Thế Tôn và tổ tiên tâm linh của con yểm trợ con với chí nguyện sâu sắc này. (C)

Giới thứ ba – phương pháp cứu chữa cho hiểm hoạ sida trên thế giới.

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con cảm thấy trái tim con rất ấm áp mỗi lần con được thưa chuyện và tâm sự với đức Thế Tôn. Con cảm nhận được sự có mặt của Ngài trong mỗi tế bào của cơ thể con, và con biết rằng Ngài đang nghe tất cả những gì con đang nói với rất nhiều từ bi. Chúng con xin đức Thế Tôn và chư vị Bồ tát mở lòng thương xót và hộ niệm cho chúng con, để chúng con có thể đủ sức chuyển hóa được những trạng huống đen tối của xã hội hiện tại gây nên bởi năng lượng tà dục. Chúng con ý thức rằng, nếu hàng ngày chúng con không thực tập chánh niệm vững vàng trong lĩnh vực tiếp thọ với xúc thực, thì hạt giống dục tình trong chúng con sẽ bị tưới tẩm. Và mỗi khi hạt giống ấy bị tưới tẩm và làm cho năng lượng tà dục phát khởi, thì thân và tâm chúng con không còn được an ổn, chúng con sẽ bị năng lượng ấy thúc đẩy đi tìm sự thỏa mãn tà dục.

Tai họa Sida đang làm tiêu hao hàng triệu sinh mạng mỗi năm. Bất cứ ai trong chúng con nếu không thực tập chánh niệm cũng có thể rơi vào hiểm họa ấy ngay trong chốc lát. Lưỡi hái của thần chết Sida làm rơi rụng hàng trăm ngàn sinh mạng con người trong từng giờ, còn khốc hại hơn những trái bom nguyên tử. Thế giới của chúng con đang bị ngọn lửa của tà dục làm cho bốc cháy.

Bạch đức Thế Tôn, chúng con biết rằng chính Năm giới là phương thuốc cứu chữa cho thế giới ngày nay. Chúng con nguyện thực tập Năm giới hết lòng và chia sẻ sự thực tập này một cách khéo léo với những người xung quanh. Chúng con sẽ làm tất cả những gì với khả năng của chúng con, để đóng góp vào việc ngăn chận bệnh sida không cho lan tràn, để làm vơi bớt khổ đau trên thế giới.

Chúng con cúi xin đức Thế Tôn và đức Bồ tát Quan Thế Âm xót thương, rải xuống trên hành tinh chúng con những giọt nước thanh lương của tình thương lớn. Chúng con biết chỉ có tình thương và ý thức trách nhiệm mới cứu được cho thế giới chúng con.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống trước đức Thế Tôn và trước đức Bồ tát Trì Địa. (C)

Con xin được lạy xuống trước Tôn giả Phú Lâu Na, bậc thầy của đức vô úy. (C)

Bảo hộ cho nhau bằng giới luật và uy nghi

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, là người xuất gia, chúng con may mắn được thực tập sống đời sống phạm hạnh. Chúng con biết rõ rằng lý tưởng của người xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, cho nên chúng con nguyện thực tập tất cả mọi giới điều và uy nghi trong giới bản để có thể tự bảo hộ cho con, bảo hộ cho kẻ khác, và không để cho con sa lầy trong vũng bùn tà dục. Con biết hành động dâm dục của con sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con và làm hại đến cuộc đời của kẻ khác mà không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sinh của mình. Con nguyện không xem thường những uy nghi đã được chế tác ra, không bao giờ dám cho đó là những giới điều nhỏ nhặt có thể giúp con bảo vệ tự do. Con sẽ không dám tự cho là mình đã đủ tự tại, đã đủ hùng lực, và không cần đến sự thực tập những uy nghi mà Bụt đã chế tác.

Bạch đức Thế Tôn, con biết ái sẽ đưa đến dục. Con cũng biết hạt giống của ái đang có mặt trong con và chỉ chờ được tưới tẩm mà cắm rễ, đâm chồi và nẩy lộc. Một khi năng lượng ái nhiễm biểu hiện, con sẽ mất bình an trong thân tâm, và ái nhiễm sẽ thiết lập những chướng ngại lớn trên con đường tu tập của con. Hình tướng của ái rất vi tế, nếu con không tự bảo hộ bằng các uy nghi thì chất liệu của ái sẽ có cơ hội cắm rễ vào thân tâm con, sẽ làm cho phẩm chất tu học của con và của Tăng thân con đi xuống. Con sẽ đánh mất tự do của con và của người khác.

Bạch đức Thế Tôn, con nguyện không tìm cơ hội để có mặt một mình bên cạnh người khác phái mà con có cảm tình, không nói lên những câu nói hay làm những cử chỉ có thể tưới tẩm hạt giống ái nhiễm nơi con và nơi người ấy, cho dù người ấy là người xuất gia hay tại gia.

Con biết cùng là đệ tử của đức Thế Tôn, chúng con phải xem nhau như anh chị em trong một nhà. Tình huynh đệ có thể nuôi dưỡng và bảo hộ chúng con trên con đường thực tập và hoằng hóa. Chúng con xin hứa với đức Thế Tôn là trên phương diện tình cảm, chúng con sẽ không đi xa hơn tình huynh đệ. Giới luật, uy nghi và sự bảo hộ giáo giới của các bạn đồng tu trong tứ chúng, là những phương tiện thiết yếu để giúp chúng con xây dựng tình huynh đệ, và ngăn ngừa không để chúng con đi vào con đường ái nhiễm. Chúng con nguyện luôn luôn lắng nghe những lời cảnh sách và giáo giới của tăng thân. Mỗi khi được một phần tử của tăng thân nhắc nhở rằng chúng con đã bắt đầu có những dấu hiệu vướng mắc tình cảm, thì chúng con sẽ chắp tay tiếp nhận lời nhắc đó mà không tìm cách minh oan, không oán trách hoặc hờn giận người đã nhắc nhở con.

Là người tại gia, chúng con không có may mắn được sống hăm bốn giờ một ngày trong môi trường thực tập miên mật của tăng thân xuất gia, chúng con biết chúng con phải thực tập giới thứ ba cho thật vững chãi, và nhất quyết không để cho những hình ảnh và những âm thanh phi lễ tưới tẩm hạt giống tà dục nơi chúng con. Chúng con nguyện sử dụng thì giờ rỗi rảnh của chúng con để học hỏi giáo pháp, nghe kinh, tụng kinh, tham dự pháp đàm và tổ chức cùng nhau tu học, hoặc tham gia các công tác văn hóa và xã hội để giúp người và độ đời. Hễ có cơ hội là chúng con sẽ lên chùa tham dự các khóa tu, các thời pháp thoại và pháp đàm. Chúng con nguyện sẽ tham dự đều đặn những ngày Bố tát tụng giới, nguyện nuôi dưỡng tâm bồ đề trong chúng con càng ngày càng lớn. Bởi vì chúng con biết rằng khi năng lượng hiểu biết và thương yêu đã hùng hậu, chúng con sẽ không còn bị quân binh của tà dục lôi cuốn nữa.

Địa Xúc

Con xin thành kính lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn và đức Tôn giả luật sư Ưu Ba Ly. (C)

Ba sự quay về và nương tựa

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, nhiều lúc con bị rơi vào những tình huống khó khăn và hoang mang, con không biết phải làm gì, phải xử lý ra sao, phải quyết định như thế nào. Mỗi lần như vậy, nhờ Năm giới mà con có tự tin hơn, con thấy rõ đường hướng, con biết mình cần phải làm gì và không nên làm gì. Là người hành trì Năm giới, con xin học để nắm vững phép thực tập Tam quy, nghĩa là ba phép quay về nương tựa. Quy y Tam bảo là một sự thực tập đòi hỏi nhiều học hiểu và quán chiếu, bởi vì con biết cái thấy và cái hiểu về Bụt, Pháp và Tăng của con còn đang yếu kém. Con biết nếu cái thấy và cái hiểu về Bụt, Pháp và Tăng của con càng ngày càng sâu, thì sự thực tập quay về nương tựa sẽ đem lại cho con càng ngày càng nhiều vững chãi, bình an và hạnh phúc. Quy y Tam bảo không phải chỉ là một tín ngưỡng hoặc một lễ nghi mà là sự thực tập hàng ngày. Con biết mỗi giây phút của đời sống hàng ngày đều có thể là một giây phút thực tập quy y Tam bảo. Giờ phút nào mà con đặt bản thân con dưới sự che chở của Tam bảo là giờ phút ấy con cảm thấy được bảo hộ, được vững vàng, thảnh thơi và hạnh phúc.

Con biết các vị xuất gia cũng phải thực tậpquy y Tam bảo trong từng giây phút và trong khi năng lượng của Tam bảo có mặt trong con thì sự hành trì Năm giới trở thành dễ dàng, không khó khăn gì.

Đức Thế Tôn đã từng dạy trong kinh Người Áo Trắng là sự thực tập Tam quy và Năm giới có thể đem lại hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Con có niềm tin vững chãi và có kinh nghiệm bản thân về lời dạy ấy. Con xin nguyện thực tập sâu sắc và giúp những người thân của con thực tập như con.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn, bậc Thầy của Trời và Người. (C)

Xây dựng hạnh phúc với chánh tín và chánh tinh tấn

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con thấy ngoài kia có rất nhiều người đang khổ đau, đang tàn phá thân tâm họ, chỉ vì họ chưa có một niềm tin, chưa có một con đường. Đức Thế Tôn đã từng dạy, làm thân con lừa hay con lạc đà phải chuyên chở nặng chưa hẳn đã là khổ, ngu si không biết hướng đi, đó mới thật là khổ. Con biết rằng con rất may mắn, con đã có đường đi rồi và con có niềm tin nơi con đường ấy. Mỗi khi con áp dụng giáo lý của đức Thế Tôn vào đời sống, con thấy có sự lắng dịu và chuyển hóa. Con thấy năng lực của niệm, của định và của tuệ tăng tiến nơi con, giúp cho con vượt thoát bế tắc và sầu khổ. Càng học hỏi và thực tập theo giáo pháp của đức Thế Tôn, con thấy niềm tin ấy càng vững chãi hơn mỗi ngày. Năng lượng của niềm tin đem đến cho con nhiều hạnh phúc. Do đó con biết rằng niềm tin của con được xây dựng trên kinh nghiệm sống của chính con chứ không phải trên một lời hứa hẹn. Con biết đức tin nơi con là một năng lượng sáng suốt chứ không phải là một sự mê tín. Con có niềm tin lớn nơi Ngài, nơi giáo pháp của Ngài và nơi tăng đoàn của Ngài. Con đã có niềm tin, đã có hướng đi, con không cần phải hoang mang lo sợ, đó là hạnh phúc lớn nhất của con.

Bạch đức Thế Tôn, nhờ có năng lượng của niềm tin, con xin phát nguyện thực tập chánh tinh tấn, nguyện tu tập và hành động để mỗi ngày có thể đi tới một cách dũng mãnh trên con đường chuyển hóa và độ đời. Con nguyện tránh tiếp xúc và tiêu thụ những gì có công năng tưới tẩm những hạt giống tiêu cực trong tâm thức con, như hạt giống của đam mê, của hận thù, của bạo động, v.v… Con không muốn để cho những hạt giống đam mê, hận thù và bạo động có cơ hội bị tưới tẩm, biểu hiện và lớn mạnh thêm. Nếu lỡ những hạt giống tiêu cực ấy bị tưới tẩm và biểu hiện thành tâm hành, thì con sẽ tìm đủ cách để những tâm hành ấy trở về dưới chiều sâu tâm thức dưới dạng những hạt giống. Con biết là nếu những tâm hành tiêu cực thường xuyên biểu hiện thì chúng sẽ lớn lên rất mau chóng, còn nếu chúng được nằm yên lâu ngày dưới đáy sâu tâm thức thì chúng sẽ yếu dần đi. Nghe lời đức Thế Tôn, con sẽ thực tập như lý tác ý. Con chỉ lưu ý tới những ý tưởng, hình ảnh và âm thanh có thể tưới tẩm những hạt giống tốt lành nơi con, để đưa những tâm hành trong sáng đẹp đẽ ấy trở về, và để cho những tâm hành bất thiện trong con được thay thế.

Bằng sự học hỏi, trì tụng, bằng cách thân cận các bậc thiện tri thức, con giúp cho những tâm hành trong sáng và đẹp đẽ trong con được biểu hiện thường xuyên. Và con sẽ tìm mọi cách để cho những tâm hành tích cực như từ, bi, hỷ, xả được biểu hiện và duy trì lâu dài trong tâm ý. Con biết nếu những tâm hành ấy có cơ hội phát triển lớn mạnh thì chúng sẽ giúp con thực hiện được nhiều chuyển hóa, đem tới cho con và cho những người xung quanh rất nhiều hạnh phúc.

Bạch đức Thế Tôn, Ngài đã dạy chúng con cách thức để chế tác ra năm nguồn năng lượng là tín, tấn, niệm, định và tuệ. Năng lượng của niềm tin đưa tới năng lượng của sự tinh chuyên, và theo đó các năng lượng niệm, định và tuệ sẽ được chế tác và làm lớn thêm niềm tin. Con xin lạy xuống trước đức Thế Tôn, các vị Thánh tăng và phát nguyện mỗi ngày sẽ thực tập để chế tác và làm hùng hậu thêm năm nguồn năng lượng quý giá ấy.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống trước đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)

Con xin lạy xuống trước Tôn giả Đại Trí Xá Lợi Phất. (C)

Con xin lạy xuống trước Tôn Giả Đại Biện Tài Phú Lâu Na. (C)

Tiêu thụ trong chánh niệm

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, trong kinh Hoa Nghiêm Ngài đã dạy: “Cái một chứa được cái tất cả. Và hiện tại không những chứa đựng quá khứ mà còn chứa đựng cả tương lai.” Nhìn sâu vào hiện tại, con có thể thấy được tương lai. Con có thể sống và tiếp xúc được với tương lai trong giây phút hiện tại. Con có thể thấy được thế hệ con cháu tương lai của con, và con có thể tiếp xúc với các thế hệ ấy trong con, ngay trong giờ phút hiện tại. Con thấy giữ gìn cho con là giữ gìn cho họ, thương yêu con là thương yêu họ, hiến tặng cho con là hiến tặng cho họ. Những bước chân con bước đi trong chánh niệm, có vững chãi, có an lạc, có thảnh thơi, là những cái mà con có thể hiến tặng cho con nhiều lần trong ngày. Mỗi bước chân như thế có tác dụng nuôi dưỡng con, nuôi dưỡng tổ tiên trong con và cũng nuôi dưỡng cho các thế hệ con cháu con. Mỗi hơi thở chánh niệm có an lạc và thảnh thơi là một phẩm vật hiến tặng. Sự hiến tặng này đem niềm vui và sức sống cho con, cho tổ tiên con và cho con cháu con ngay trong giờ phút hiện tại. Con ăn cơm cũng là để nuôi dưỡng tổ tiên và con cháu. Con ngồi thiền cũng là để nuôi dưỡng tổ tiên và con cháu. Và con ao ước mỗi giây phút thực tập của con cũng đều là để nuôi dưỡng cho tổ tiên và con cháu con. Con thấy mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi nụ cười, mỗi cái nhìn… đều là một hành động của tình thương chân thật.

Những gì con đưa vào thân tâm con phải có chất liệu lành mạnh, từ thức ăn vật chất cho đến thức ăn tinh thần, từ thức ăn thức uống cho đến sách báo, phim ảnh, ca khúc và đàm thoại, từ đoàn thực qua xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Con không muốn nuôi tổ tiên và con cháu con bằng những sản phẩm có độc tố như thèm khát, hận thù, bạo động và tuyệt vọng. Con chỉ muốn nuôi dưỡng và hiến tặng cho tổ tiên và con cháu con những thực phẩm lành mạnh, có tác dụng nuôi dưỡng, thanh lọc và chuyển hóa. Con biết sự thực tập chánh niệm trong lúc tiêu thụ là phương thức để bảo hộ hữu hiệu nhất cho con, cho tổ tiên và cho con cháu con. Và con nhận diện rằng sự thực tập này là sự thực tập thương yêu đích thực.

Con nguyện chỉ trao truyền cho con cháu con trong con và ngoài con, những hoa trái của sự thực tập hàng ngày của con. Những năng lượng của hiểu biết, của thương yêu, những ngôn từ và hành động phát xuất từ chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ. Con nguyện sống giây phút hiện tại như thế nào để có thể bảo đảm được một tương lai tươi sáng cho con cháu con. Và con biết rằng nếu các con cháu con đang có mặt trong con ở giây phút hiện tại thì con cũng sẽ có mặt trong các con cháu con ở giây phút tương lai. Hai giây phút ấy đang có mặt trong nhau.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống trước đức Thế Tôn, bậc Tỉnh Thức Toàn Vẹn. (C)

Con xin lạy xuống trước đức Đại Trí VănThù Sư Lợi. (C)

Con xin lạy xuống trước đức Tôn giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên. (C)

Ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con rất hạnh phúc khi được ăn chay, vì nhờ ăn chay mà con nuôi dưỡng được tâm từ bi, và tâm từ bi là nền tảng cho hạnh phúc. Nhìn ra, con thấy nhiều loài phải ăn nhau mà sống. Con nhện phải ăn con ruồi hay con bướm, con rắn phải ăn con ếch, con chim phải ăn con sâu hay con cá, con mèo phải ăn con chuột, con cọp phải ăn con nai… Con cảm thấy rất biết ơn khi con không phải ăn thịt các loài chúng sanh để sống. Con biết các vị Bồ tát không bao giờ nỡ ăn thịt các loài chúng sanh, và con cũng muốn sống như một vị Bồ tát.

Trong kinh Tử Nhục, đức Thế Tôn dạy chúng con phải ăn trong chánh niệm, ăn như thế nào mà duy trì và phát triển được tâm từ bi của mình, và khi ăn thịt chúng sanh phải thấy như mình đang ăn thịt những đứa con bé bỏng của mình, không khác. Con được biết là ở các nước phát triển, người ta ăn thịt và uống rượu nhiều quá. Ăn thịt và uống rượu có ảnh hưởng tai hại đến thân tâm, và cũng có ảnh hưởng tai hại đến dân chúng các nước còn nghèo đói. Con được biết là mỗi ngày trên thế giới có hơn bốn mươi ngàn trẻ em chết vì đói và vì thiếu dinh dưỡng. Trong khi đó thì một khối lượng vĩ đại của lúa, gạo, bắp, bo bo đang được sử dụng để làm rượu và nuôi súc vật để cung cấp thịt trên thị trường. Con biết ý của đức Thế Tôn là nếu uống rượu và ăn thịt như vậy là không có chánh niệm, là không nuôi dưỡng tâm từ bi, là đang ăn thịt những đứa con bé bỏng của mình. Bốn chục ngàn trẻ em chết đói mỗi ngày trên thế giới nếu không phải là con cháu của chúng ta thì là con cháu của ai nữa?

Bạch đức Thế Tôn, vì vậy cho nên con đã phát nguyện ăn chay, và con cảm thấy an ổn, hạnh phúc khi được ăn chay. Con biết cơm chay có thể rất ngon, và có thể ngon hơn cơm mặn nữa, nếu khi nấu và khi ăn con ý thức được rằng con đang nuôi dưỡng tâm từ bi. Con rất phấn khởi khi thấy ngày nay số lượng người ăn chay càng lúc càng đông, nhất là ở châu Âu và châu Mỹ, và ở thành phố lớn nào cũng có tiệm cơm chay. Có nhiều người Tây phương ăn chay vì ý thức được rằng ăn chay thì có lợi cho sức khỏe tinh thần và thể chất của họ, có vị thì ăn chay cũng vì muốn nuôi dưỡng lòng từ bi. Con cũng rất hạnh phúc khi thấy ở Tây phương có những hiệp hội vận động tranh đấu và bảo vệ cho các loài muông thú, ngăn ngừa không để cho con người lạm dụng sinh mạng của các loài khác và gây khổ đau cho các loài này như trong trường hợp sát hại thú vật quá nhiều trong các công cuộc thử nghiệm. Nhưng con cũng còn lo lắng khi thấy sự tiêu thụ rượu và các chất ma túy vẫn còn chưa được giảm thiểu.

Địa Xúc

Con xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống ba lạy để nuôi dưỡng ý thức về những khổ đau của mọi loài trên thế giới, và phát nguyện ăn như thế nào để có thể nuôi lớn thêm tâm từ bi của con và giảm thiểu khổ đau của muôn loài. (C)

Tiêu thụ thức ăn sạch để bảo vệ môi trường

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, trong nửa cuối thế kỷ trước và trong những năm đầu của đầu thế kỷ này, con đã thấy ý thức về sinh môi trở thành sáng tỏ. Nhiều người trong chúng con đang vận động để trong khi chăn nuôi và gieo trồng, chúng con không gây tàn hại cho sinh môi như trong thế kỷ trước. Bao nhiêu rừng cây đã bị đốn xuống để làm đồng cỏ nuôi súc vật. Phân rác do công nghiệp chăn nuôi thải ra đã làm cho đất đai và các nguồn nước ô nhiễm rất trầm trọng. Việc sử dụng các chất độc hóa học trong ngành canh nông cũng đã gây tàn hại trầm trọng cho các loài chúng sanh, cho đất, nước và khí trời. Cũng chỉ vì loài người chúng con tham ăn mà trái đất này phải gánh chịu bao nhiêu thảm hại. Chúng con đã hoàn toàn quên rằng Trái Đất này là Mẹ của chúng con và của hàng triệu chủng loại. Mẹ đã cung cấp mọi thứ để nuôi dưỡng chúng con, trong đó có không khí cho chúng con thở, nước trong cho chúng con uống, thực phẩm cho chúng con ăn và cây lá cho chúng con trị bệnh.

Các phi hành gia đã phải bay lên mặt trăng rồi từ đó nhìn về trái đất để khám phá ra rằng đất Mẹ của chúng ta là một vũ trụ sáng rỡ, nhiệm mầu không thể nào tả nổi. Họ đã phải rời xa hành tinh chúng ta, để rồi mới biết thương biết nhớ đất Mẹ và phát nguyện giữ gìn và bảo hộ trái đất. Bạch đức Thế Tôn, con không cần phải lên đến mặt trăng mới biết phát nguyện bảo vệ đất Mẹ. Nhờ thực tập ăn uống cho có chánh niệm, không ăn thịt, không uống rượu, chúng con đã nỗ lực khuyến khích và yểm trợ cho một nền nông nghiệp lành mạnh, biết tôn trọng mạng sống chúng sinh và sinh môi. Trong vườn nhà, vườn chùa, chúng con sẽ tập trồng rau trái theo phương thức hữu cơ. Ra chợ, chúng con cố gắng mua các thứ rau trái trồng theo lối hữu cơ, để yểm trợ cho những nông dân sản xuất thực phẩm theo đường hướng này. Chúng con sẽ tập ăn ít lại để có đủ tiền mua rau đậu và cây trái trồng theo lối hữu cơ.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy để sám hối với đất Mẹ. Đất Mẹ đã chở che, nuôi dưỡng và ôm ấp chúng con qua bao nhiêu đời, chúng con đã không ý thức được điều đó nên đã gây tàn hại quá nhiều cho đất Mẹ. Xin đức Thế Tôn và các vị tổ sư chứng minh cho con khi con lạy xuống. (C)

Thực tập chánh mạng

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con nguyện xin thực tập chánh mạng, con sẽ tìm cách sinh sống bằng những phương tiện không làm tổn hại đến lòng từ bi. Thực tập giới thứ nhất trong Năm giới, con nguyện không sinh sống bằng những nghề nghiệp bắt buộc phải sát hại các loài chúng sinh, không tàn phá và làm nhiễm ô môi trường sinh sống của các loài ấy. Con nguyện không đầu tư vào những doanh nghiệp chỉ chuyên làm lợi cho một nhóm người nhưng lại tước đoạt cơ hội sinh sống của những nhóm người khác, những doanh nghiệp đang làm nhiễm ô môi trường. Con biết rằng trong lòng đất Mẹ cất chứa bao nhiêu kho tàng của năng lượng, chúng con nguyện sẽ sử dụng những kho tàng năng lượng đó một cách khéo léo để chúng đừng khô cạn. Con muốn bảo hộ cho đất Mẹ, như đất Mẹ đã luôn bảo hộ và che chở cho hàng triệu chủng loại trên hình hài của Mẹ. Những loài lớn, những loài nhỏ, những loài yếu cũng như những loài mạnh. Đất Mẹ đã biết sử dụng dưỡng khí từ quá trình quang hợp để tạo nên một lớp ozone trên thượng tầng khí quyển, giúp ngăn chận lại những tia phóng xạ cực tím, nhờ đó che chở được cho các loài sinh vật đang được Mẹ nuôi dưỡng. Sở dĩ chim chóc vẫn được cái hạnh phúc trở về với mây trời thênh thang, sở dĩ hươu nai vẫn có cái thích thú chạy nhảy ở đồng quê, đó là nhờ khả năng đùm bọc và che chở của đất Mẹ. Đất Mẹ đã tiếp thu, đã gặt hái ánh sáng của mặt trời một cách khéo léo để nuôi dưỡng đàn con của đất Mẹ và làm cho Mẹ xinh đẹp hơn từ hơn một tỷ năm nay. Con mong sao đất Mẹ vẫn có thể tiếp tục có mặt lâu dài trong hình thức xinh đẹp như hiện tại của Mẹ. Không những trong 500 triệu năm mà còn lâu dài hơn thế nữa. Con muốn bảo hộ cho đất Mẹ để Mẹ có mặt lâu dài với chúng con trong hệ Thái Dương ấm áp này.

Bạch đức Thế Tôn, con xin hứa với Ngài là nếu con đã lỡ bị hoàn cảnh ép buộc, hoặc đã làm những việc tổn hại đến môi trường thì con sẽ tìm cách thoát ra từ từ để tìm được một phương tiện sinh sống đúng theo tinh thần Chánh mạng. Con biết nếu con có được một nghề nghiệp mà hàng ngày con có thể nuôi dưỡng được lòng từ bi và thực hiện được sự cứu khổ, thì hạnh phúc của con sẽ rất lớn. Là giáo viên, là y tá, là bác sĩ, là người bảo vệ sinh môi, là nhà khoa học nghiên cứu, là cán sự y tế và xã hội, là nhà tâm lý trị liệu, con có cơ hội thực tập hiểu và thương, để làm thỏa mãn nhu yếu độ đời giúp người của con. Con biết còn nhiều nghề nghiệp khác nữa cũng có thể giúp con đi trên con đường ấy.

Con nguyện tập sống đơn giản, ít tiêu thụ, để khỏi phải mất quá nhiều thì giờ vào việc mưu sống, để có thì giờ sống sâu sắc và thảnh thơi trong khi làm việc cũng như trong khi chăm sóc và phụng sự. Con nguyện sẽ không ham hố kiếm nhiều sở làm, làm việc phụ trội, lấy cớ là để có đồng ra đồng vào. Con nguyện không đi tìm hạnh phúc ở phía bận rộn và tiêu thụ, mà chỉ đi tìm hạnh phúc về phía thảnh thơi và thương yêu.

Là người xuất gia, con nguyện không lập am cốc hay chùa riêng để sống một mình một cõi, sống xa lìa tăng thân, sống như một con hổ lìa rừng. Con nguyện không gieo rắc mê tín, sử dụng bùa phép, xem tướng, bói quẻ, chủ trương đốt vàng mã và tiền giấy, không cúng giải trừ sao hạn, thực tập đồng bóng, trừ tà yếm quỷ, không biến sự thực tập hộ niệm thành nghề cúng bái, không đưa ra giá cả cho những đám tang hoặc những buổi cầu siêu. Con cũng nguyện không đánh mất con trong những công việc mà con tưởng là Phật sự, nhưng bản chất là tìm kiếm tiếng khen, địa vị và lợi lộc, dù đó là việc xây chùa, đúc tượng, tổ chức, lễ lược hay tổ chức khóa tu. Con chỉ làm những công việc mà tăng thân giao phó và sẽ nguyện làm chung với các bạn đồng tu trong bốn chúng. Trong khi làm các công việc ấy, con hứa sẽ thực tập làm chung với tăng thân con trong tinh thần kiến hòa đồng giải và ý hòa đồng duyệt. Con nguyện sẽ lắng nghe ý kiến của mọi người trong tăng thân để đi đến một ý kiến tổng hợp, một tuệ giác cộng đồng làm nền tảng cho mọi quyết định. Làm như vậy, chúng con sẽ xây dựng thêm được tình huynh đệ, buông bỏ tự ái, ngã chấp và đi tới trên con đường chuyển hóa phiền não. Công việc xây dựng hay tổ chức là một cơ hội để chúng con có thể làm việc chung với nhau, tập buông bỏ lề thói chỉ muốn cho ý kiến của mình là hay nhất mà không thấy được giá trị của ý kiến người khác. Chúng con biết rằng làm việc trong tinh thần kiến hòa đồng giải và ý hòa đồng duyệt thì công việc đó mới được gọi là Phật sự, pháp sự hay tăng sự. Làm việc với nhau như thế chúng con mới có khả năng độ đời và giúp người.

Địa Xúc

Con xin kính cẩn lạy xuống ba lạy trước đức Bồ tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (C)

Nương tựa Đất Mẹ

 

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con nhớ trước ngày Ngài thành đạo dưới cội bồ đề, Ma Vương có xuất hiện và hỏi Ngài những câu hỏi với mục đích là để làm cho Ngài nản chí. Ma Vương hỏi: “Ngươi là ai mà dám nghĩ rằng mình sẽ đạt đến quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác? Ngươi tu hành đã bao nhiêu kiếp mà bây giờ dám nghĩ là trong vòng hăm bốn tiếng đồng hồ nữa là có thể đạt thành đạo quả? Ai có thể chứng minh được rằng những điều ngươi nói đúng với sự thực?” Bạch đức Thế Tôn, khi Ma Vương hỏi Ngài những câu hỏi ấy thì Ngài đã đưa bàn tay phải của Ngài ra để xúc chạm vào mặt đất, và Ngài nói với Ma Vương: “Có Đất này chứng minh rằng những điều ta nói là có thực”. Đất đã rung động. Và Ma Vương đã rút lui.

Bạch đức Thế Tôn, con rất muốn chiêm ngưỡng hình ảnh của Ngài khi Ngài ngồi vững chãi trên mặt đất và tay phải của Ngài đang bắt ấn địa xúc. Mỗi lần thấy hình ảnh ấy là con rất cảm động. Đất đã chứng minh rằng Ngài đã từng được hiện thân trong vô lượng kiếp và Ngài đã liên tiếp thành công trong mỗi kiếp. Ngài có chỗ nương tựa rất vững chãi để có thể biểu hiện hàng trăm triệu lần trong những hóa thân mầu nhiệm, để tu tập và độ đời. Bụt Tỳ Bà Thi trong quá khứ cũng đã là Ngài mà Bụt Từ Thị trong tương lai cũng sẽ là Ngài. Và còn trăm triệu hóa thân khác nữa. Chỗ nương tựa vững chãi của Ngài là Đất. Ngài biểu hiện từ Đất và luôn luôn trở về với Đất để rồi Ngài biểu hiện trở lại. Con biết là con cũng có thể nương tựa vào Đất như Ngài, và khi nương tựa vào Đất con cũng sẽ có được năng lượng vững chãi như Ngài.

Phật bảo sáng vô cùng

Đã từng vô lượng kiếp thành công

Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông

Sáng rực đỉnh Linh Phong

Trên trán phóng hào quang rực rỡ

Chiếu soi sáu nẻo hôn mông

Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng

Tiếp nối Pháp chánh tông

Xin quy y thường trú Phật đà gia!

Bạch đức Thế Tôn, đất Mẹ không chỉ là Mẹ của chúng con mà còn là Mẹ của Ngài, của nhiều vị Bụt và nhiều vị Bồ tát khác nữa. Mỗi khi chúng con lao đao, mỗi khi chúng con đánh mất tự thân trong quên lãng, trong buồn tủi, trong hận thù và tuyệt vọng, chúng con phải trở về thực tập địa xúc, tìm về nương tựa nơi đất Mẹ để lấy lại sự bình an, để phục hồi niềm vui sống và đức tự tin. Chúng con biết dù chúng con có gây ra bao nhiêu lầm lỗi, chúng con cũng được đất Mẹ tha thứ. Và mỗi lần trở về với đất Mẹ là Mẹ sẵn sàng đưa vòng tay từ mẫu ôm lấy chúng con vào lòng. Đức kiên nhẫn và sức chịu đựng vô cùng lớn của đất đã làm cho đất Mẹ trở nên một vị Bồ tát lớn, một nơi nương tựa vô cùng vững chãi cho tất cả chúng con. Chúng con hết lòng tin tưởng và nương tựa vào đất Mẹ. Nếu chúng con nuôi dưỡng được ý thức là trong đất Mẹ luôn luôn có con và trong con luôn luôn có đất Mẹ thì cả Mẹ, cả con đều an vui và khỏe mạnh.

Con biết thực tập địa xúc trong tư thế ngồi, trong tư thế đi hay trong tư thế nằm, con có thể đạt được sự vững chãi như Đất và con có thể nối tiếp được sự nghiệp của đức Thế Tôn.

Địa Xúc

Con xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống ba lạy để tiếp xúc một cách sâu sắc với Đất và để cảm nhận nguồn năng lượng vững chãi vô cùng của Đất. (C)

 

Vững chãi như đất

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, mỗi khi ngồi yên trên đất Mẹ, con ý thức là đất Mẹ đang có trong con, con luôn luôn ao ước có được những đức lớn của Mẹ, đó là đức kiên trì chịu đựng, đức trung hậu bền vững, đức vô úy đại hùng, đức sáng tạo không hề biết mỏi. Chúng con nguyện hành trì để có được đầy đủ những đức ấy của Mẹ, và chúng con biết rằng Mẹ đã gieo tất cả những hạt giống tiềm năng ấy trong tâm điền của mỗi chúng con. Con đang nghe lời đức Thế Tôn khuyên nhủ, con sẽ tập ngồi vững chãi trên mặt đất và thực tập địa xúc một cách sâu sắc và vững vàng.

Đây một gốc cây

Đây một căn phòng trống

Đây một tọa cụ nhỏ

Đây xanh mát một bãi cỏ

Con hãy ngồi xuống đi Ngồi cho thẳng

Ngồi cho vững

Ngồi cho an

Đừng để tư duy đưa hổng con lên không gian

Bàn tọa con hãy chấm chặt vào mặt đất

Con hãy cùng đất hợp nhất.

Đã trở về với đất

Con hãy mỉm cười

Thì đất sẽ truyền cho con sự vững chãi

Sự bình yên, sự thảnh thơi

Hơi thở tinh chuyên

Nụ cười an nhiên

Con duy trì địa xúc

Có khi con đã không thành công

Ngồi trên đất nhưng con như bay bổng trên hư không

Bởi con đã quen phiêu dạt cõi luân hồi

Trôi lăn trong biển vọng

Nhưng đất vẫn kiên nhẫn

Đất vẫn trông mong

Đất đã chở che cho con hàng triệu kiếp

Thì mãi mãi bao lâu đất cũng sẽ bền lòng

Đất biết rằng con sẽ trở về

Đất sẽ chào đón con

Bao giờ cũng tươi mát như lần đầu

Tình thương không bao giờ nói rằng đây là lần cuối

Đất là mẹ thương yêu

Thì có bao giờ hết kiên nhẫn chờ trông?

Con trở về với đất đi

Rồi con sẽ thấy

Như cây kia

Hoa lá hồn con rồi sẽ tốt tươi

Một khi con biết đi vào địa xúc. (C)

Bạch đức Thế Tôn, con đang nghe lời đức Thế Tôn khuyên nhủ. Con sẽ đi vững chãi trên mặt đất, thực tập địa xúc thật vững vàng. Đất Mẹ là quê hương mà chúng con có thể trở về trong mỗi bước chân:

Con đường vắng đón con

Con đường thơm ngát cỏ hoa

Con đường lúa thơm

Còn ghi dấu tuổi thơ bàn tay mẹ.

Con hãy đặt những bước chân chậm rãi

Những bước chân ung dung, nhẹ nhàng

Chân con hãy thật sự dính vào mặt đất

Đừng để suy tư làm con bay lên không gian

Hãy luôn luôn trở về với con đường ấy.

Con đường là bạn con

Con đường sẽ trao truyền cho con

Sự bình yên

Sự vững mạnh

Hơi thở ý thức tinh chuyên

Con duy trì địa xúc.

Con hãy đi những bước chân như hôn vào mặt đất

Hãy đi những bước chân như vỗ về trái đất

Như dấu ấn son của vị quốc vương

Truyền lệnh đem hiện tại về ngự nơi đây

Cho sự sống có mặt

Cho sinh lực dâng đầy

Cho nhiệm mầu hiển hiện

Cho sắc mặt lên hồng

Cho não phiền chuyển hóa

Cho an lạc thân tâm.

Có khi con đã không thành công

Bước trên con đường vắng

Nhưng con như bay bổng trên hư không

Bởi con đã quen phiêu bạt cõi luân hồi

Trôi lăn trong biển vọng

Nhưng con đường vẫn kiên nhẫn

Nhưng con đường vẫn chờ trông

Con đường thân thuộc trung kiên

Con đường biết sớm muộn gì rồi con cũng trở lại

Nẻo về sẽ đón bước chân con

Bao giờ con đường cũng mát tươi như lần gặp gỡ đầu

Tình thương không bao giờ nói rằng đây là lần cuối

Vốn là người bạn cố tri

Con đường bao giờ cũng kiên nhẫn đợi chờ

Dù dưới lớp bụi đỏ

Dù phủ kín lá vàng

Dù mưa vũng lầy lội

Dù tuyết phủ ngày đông

Con hãy trở về đi

Rồi con sẽ thấy

Như cây kia

Hoa lá hồn con rồi sẽ tốt tươi

Một khi con biết đi vào địa xúc.

Địa Xúc

Xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống, năm vóc sát đất, hoàn toàn giao hết thân mạng con cho Đất, và nguyện từ nay sẽ thực tập thiền lạy, thiền ngồi và thiền đi như thế nào để thấy được Đất là nền tảng vững chãi của con. (C)

Hạnh bao dung và không kỳ thị của đất

 

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con biết rằng một trong những người anh lớn trong giáo pháp của chúng con là Bồ tát Địa Tạng, một vị Bồ tát lớn, có hạnh nguyện rất cao thâm: Chừng nào địa ngục chưa trống không thì Ngài vẫn chưa dừng nghỉ công việc hóa độ. Bạch đức Thế Tôn, con thấy danh hiệu Địa Tạng rất hay. Danh hiệu ấy có nghĩa là trái đất với tính cách vững chãi và dày dặn của nó có khả năng chứa đựng và ôm ấp được tất cả (Địa ngôn kiên, hậu, quảng hàm tàng). Tuy biết rằng khổ đau và phiền não của chúng sanh không có giới hạn, nhưng hạnh nguyện cứu đời của một vị Bồ tát cũng không có giới hạn. Chừng nào còn có khổ đau, còn có phiền não, thì vị Bồ tát còn chưa dừng tay cứu độ. Trái đất của chúng con cần những con người như Bồ tát Địa Tạng, và con cũng rất muốn giúp Ngài một tay. Con thấy địa ngục của sự hiểu lầm, của hận thù và bạo động được dựng lên khắp nơi, nhưng nơi nào cũng có mặt của những vị Bồ tát đang hành động để nỗ lực giải tỏa những địa ngục ấy.

Bạch đức Thế Tôn, có một lần đức Thế Tôn giáo giới cho thầy La Hầu La và Ngài đã dạy thầy La Hầu La là nên học hạnh của đất. Đức Thế Tôn dạy: “Này La Hầu La, con hãy học theo hạnh của đất. Khi người ta đổ và rải lên đất những thứ thơm tho và tinh sạch như hoa hương và sữa thơm, đất không thấy tự hào. Khi người ta đổ lên đất những thứ dơ dáy và hôi hám như phân, nước tiểu và máu mủ, hoặc khạc nhổ xuống đất, thì đất cũng không cảm thấy giận hờn, chán ghét hoặc tủi nhục. Đất có khả năng tiếp nhận ôm ấp và chuyển hóa tất cả.”

Bạch đức Thế Tôn, đất Mẹ của chúng con có khả năng tiếp nhận, giữ gìn và chuyển hóa tất cả. Kể cả đờm dãi tanh hôi, kể cả khí độc, kể cả phóng xạ nguyên tử đất Mẹ cũng có khả năng ôm ấp và chuyển hóa. Đất Mẹ có dư dả thì giờ để làm việc ấy và nếu cần thì đất Mẹ có thể để ra một triệu năm để chuyển hóa. Đất Mẹ có bao nhiêu là con, các con của đất Mẹ có tới hàng triệu chủng loại, trong đó có con người. Chúng con có nhiều đứa vì tham lam, vì kiêu căng, vì ngu si không nhận ra được Mẹ, đã gây ra bao cảnh tàn khốc cho nhau và làm hại tới sức khỏe cũng như nhan sắc của Mẹ. Vậy mà lúc nào đất Mẹ cũng có đủ năng lượng để ôm ấp và chuyển hóa tất cả những lỗi lầm của chúng con.

Bạch đức Thế Tôn, đất Mẹ có những đứa con tự hào là giỏi toán học, là công nhân khéo léo, là kiến trúc sư tài ba, nhưng ít ai thấy được đất Mẹ là nhà toán học vĩ đại nhất, người công nhân khéo tay nhất và vị kiến trúc sư tài ba nhất. Chỉ cần nhìn vào một cánh hoa anh đào, một vỏ ốc hay một con dơi là thấy được điều đó. Chúng con có những họa sĩ tài ba, nhưng những bức tranh của chúng con làm sao so sánh được với những bức tranh của đất Mẹ vẽ ra trong bốn mùa? Làm sao chúng con vẽ được một buổi bình minh hào hùng như thế, làm sao chúng con vẽ được một buổi hoàng hôn rạng rỡ như kia? Chúng con có những nhạc sĩ tài ba, nhưng những bản hợp ca của chúng con làm sao bì kịp với những buổi hòa tấu mầu nhiệm của đất trời, những tiếng hải triều hùng vĩ? Chúng con có những chiến sĩ anh hùng gội nắng dầm mưa, trèo non vượt suối, nhưng có ai có được sức kiên nhẫn chịu đựng và khả năng ôm ấp lâu dài như đất Mẹ? Chúng con cũng có những tình yêu lớn nhưng có ai có được cái tình yêu ôm trọn muôn loại, không kỳ thị không phân biệt, như tình thương vĩ đại của đất Mẹ?

Con biết là Bồ tát Địa Tạng cũng có năng lượng vững chãi và bao dung của đất Mẹ, vì thế nên Ngài có thể ôm ấp và chuyển hóa tất cả. Con cũng muốn được học hạnh của đất như Bồ tát Địa Tạng và như thầy La Hầu La. Con có những tủi đau, buồn chán và khổ nhục trong con, con xin lạy xuống để đất ôm lấy con, ôm lấy tất cả những tủi đau, buồn chán và khổ nhục trong con, để đất và con có thể từ từ chuyển hóa. Và để mai sau hoa trái của tình thương và niềm vui được xuất hiện trên mặt đất cũng như trong trái tim con.

Địa Xúc

Con xin lạy trước đức Bồ tát Đại Kiên Đại Hậu Đại Lực Kshitigarbha, Ngài có hạnh vững chãi và không phân biệt để ôm lấy tất cả những ai đau khổ. (C)

Con xin lạy trước đức Tôn Giả Mật Hạnh Rahula để vun bồi nơi con khả năng ôm tất cả mọi người và mọi loài mà không phân biệt. (C)

 

Bảo hộ hành tinh xanh là tiếp nối sự nghiệp của đức Như Lai

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, Ngài là một đứa con của trái đất và Ngài đã chọn trái đất để làm đạo tràng hành đạo của Ngài. Trong quá trình tu tập và giáo hóa, đức Thế Tôn đã đào tạo nên biết bao nhiêu vị Bồ tát có khả năng bảo hộ hành tinh xinh đẹp này. Con nhớ trong hội Pháp Hoa, vào lúc Tùng Địa Dũng Xuất, đức Thế Tôn đã gọi các vị Bồ tát ấy ra trình diện, và hàng trăm ngàn vị đã xuất hiện từ dưới mặt đất. Các vị ấy đã hứa với đức Thế Tôn là sẽ ở lại chăm sóc mãi mãi cho hành tinh này và cũng để nối tiếp sự nghiệp của đức Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn, chúng con đã được biểu hiện từ đất Mẹ, chúng con sẽ trở về với đất Mẹ để tiếp tục được biểu hiện hàng triệu lần nữa. Như các vị Bồ tát ấy, chúng con cũng là những đứa con của trái đất, chúng con xin hứa với Ngài rằng chúng con sẽ noi gương các vị Bồ tát, những người anh của chúng con. Chúng con cũng muốn làm những vị Bồ tát nhỏ trong số vô lượng những vị Bồ tát tùng địa dũng xuất. Chúng con cũng muốn góp phần vào việc bảo hộ hành tinh của chúng ta, làm cho hành tinh này trở nên xanh đẹp và mạnh khỏe hơn.

Giờ đây tăng thân của đức Thế Tôn đã có mặt trên hầu hết mọi quốc gia, không những ở châu Á mà ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và châu Úc. Chúng con xin nguyện cùng ở lại với tăng thân của đức Thế Tôn để tiếp tục sự nghiệp độ sinh của Ngài. Cùng với tăng thân, chúng con làm công việc chuyển rác thành hoa, bảo hộ sự sống và xây dựng Tịnh độ ngay trên mặt đất này. Chúng con biết chất liệu hiểu biết và thương yêu là chất liệu căn bản để xây dựng nên Tịnh độ, cho nên chúng con nguyện là trong mỗi giây phút của cuộc sống hàng ngày chúng con sẽ nỗ lực chế tác chất liệu hiểu biết và thương yêu.

Cùng tăng thân xin nguyện ở lại

Trong cõi đời làm việc độ sinh

Giờ phút này sông núi chứng minh

Cúi xin đức Từ Bi nhiếp thọ.

Địa Xúc

Xin đức Thế Tôn cho chúng con lạy xuống ba lạy làm bền vững thêm lòng cam kết của con đối với đất Mẹ, đối với hành tinh xanh. (C)

Thực tập có nội dung

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con lấy làm hổ thẹn vì nhiều lúc con đã thực tập đầy đủ trong hình thức mà thiếu kém về nội dung. Trong khi thắp hương, lạy Bụt, ngồi thiền, đi thiền, đọc kinh, nhiều lúc con đã để cho tâm con rong ruổi đi về quá khứ, đi về tương lai hoặc kẹt vào những lo toan, hoặc suy nghĩ miên man về những chuyện không đâu trong hiện tại. Con biết thực tập hình thức như thế thì không có ích lợi gì cho bản thân con và cho tăng thân con. Tuy con không nghĩ đó là một sự giả dối, nhưng con biết trong cách thực tập ấy con đã đánh mất rất nhiều cơ hội. Thắp một cây hương, bước một bước chân, hoặc thở vào một hơi thở đều là một cơ hội cho con làm phát khởi năng lượng chánh niệm và chánh định. Con biết có chánh niệm và chánh định thì thế nào cũng sẽ có tuệ giác, vậy mà con đã không tập trung tâm ý vào trong khi thắp hương, trong khi bước một bước chân hoặc trong khi thở một hơi thở. Người không có tu thì trong khi đứng, ngồi, hoặc cười nói, không ý thức là mình đang đứng ngồi hoặc cười nói. Còn con là người tu mà có nhiều khi con cũng làm như họ, đi, đứng, và nói cười không chánh niệm.

Con xin hứa với đức Thế Tôn là từ giờ phút này đây, con sẽ cố gắng làm hay hơn, để trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày con có thể chế tác thêm chất liệu chánh niệm và chánh định. Con biết chất liệu chánh niệm và chánh định mà con chế tác ra không những sẽ giúp con trị liệu và chuyển hóa thân tâm, mà còn yểm trợ rất nhiều cho những thành phần khác của tăng thân con và nâng cao phẩm chất tu học của tăng thân ấy. Xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống để con có thể ghi nhớ điều này.

Địa Xúc

Một lòng kính lạy đức Thế Tôn, bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu, bậc thầy chỉ đạo của tất cả chúng con. (C)

Thực tập nhận diện đơn thuần

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, theo lời Thế Tôn dạy, trở về với hiện tại không có nghĩa là có thể an trú được trong hiện tại. Những gì đang xảy ra trong hiện tại có thể có tác dụng lôi kéo con, làm cho con hoặc ghét bỏ hoặc chạy theo. Con không muốn ghét bỏ cũng không muốn chạy theo, bởi vì cả hai lối hành xử đó đều làm cho con có thể đánh mất tự do của con, và con tự đánh mất con trong giây phút hiện tại. Mặc dù con không muốn như vậy, nhưng nhiều lúc con vẫn hành xử theo thói quen phản ứng. Chánh niệm không những giúp con nhận diện được cái gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, mà còn giúp con không để cho cái ấy lôi cuốn con nữa. Vì vậy cho nên con nghe lời Thế Tôn, hết lòng thực tập chánh niệm. Con biết chánh niệm trước hết là khả năng nhận diện đơn thuần, chỉ nhận diện mà không chạy theo hoặc ghét bỏ. Phép nhận diện đơn thuần này giúp cho con chế tác và bảo trì được năng lượng vững chãi và thảnh thơi, đó là bất động và tự tại.

Đức Thế Tôn đã dạy rằng, bất động và tự tại là hai đặc tính căn bản của Vô sinh, của Niết bàn. Vì vậy cho nên con xin hứa với đức Thế Tôn là trong đời sống hàng ngày con sẽ tinh chuyên hơn trong việc thực tập nhận diện đơn thuần bằng chánh niệm. Rửa tay thì con biết là con đang rửa tay, cầm bát thì con biết là con đang cầm bát. Khi có tâm hành bực bội thì con biết là con đang có tâm hành bực bội. Khi tâm hành vướng mắc biểu hiện thì con biết là tâm hành vướng mắc biểu hiện. Con sẽ tập mỉm cười và nhận diện tất cả những gì đang xảy ra mà không lo lắng, không có mặc cảm, dù là mặc cảm tự tôn, tự ty hay ngang bằng.

Địa Xúc

Bạch đức Thế Tôn, con xin lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn, đức Bụt của hiện tại, trước đức Bụt Ca Diếp, đức Bụt của quá khứ, và trước đức Bụt Di Lặc, đức Bụt của tương lai. Con xin chư Bụt chứng minh cho sự lời nguyện và sự quyết tâm hành trì của con. (C)

Quán chiếu tương tức để vượt thoát sinh tử

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, như đức Thế Tôn đã từngdạy, người đời thường kẹt vào các ý niệm có và không, thường và đoạn. Con biết là ý niệm về một linh hồn bất diệt là một tà kiến, cho nên con đang thực tập quán chiếu để thấy được rằng ý niệm đoạn diệt cũng là một tà kiến khác. Con đã được Thế Tôn dạy rằng không nên để vướng vào một trong hai biên kiến ấy, một bên là thường, một bên là đoạn. Vì thế cho nên con tự nhủ lòng là trong công phu tu tập hàng ngày, con phải dụng công để nhìn thấy cho rõ tính cách không thường không đoạn ngay chính năm uẩn của con và của sự vật quanh con. Tuệ giác vô thường cho con thấy không có gì thật sự được gọi là tồn tại đích thực, không có gì thật sự được gọi là có. Tất cả đều là những biểu hiện. Tuy mầu nhiệm nhưng không có thực thể riêng biệt, không có tự tính riêng biệt, cái này do cái kia mà biểu hiện, cái kia do cái này mà biểu hiện, cái này có mặt trong cái kia và cái kia đang có mặt trong cái này.

Bạch đức Thế Tôn, Ngài đã dày công chỉ bảo, đã nhắc nhở chúng con nhiều lần rằng sự nghiệp cao cả nhất của cuộc đời người tu là sự nghiệp giác ngộ, vậy mà con đã phí bỏ bao nhiêu thì giờ quý hóa của con để theo đuổi những sự nghiệp có tính cách thế gian, đi tìm tiếng khen, đi tìm lợi dưỡng, đi tìm địa vị. Đôi khi con còn tự đặt câu hỏi là sau khi hình hài con tan rã thì con sẽ đi về đâu. Ý thức đó đã giúp cho con có thể sống sâu sắc hơn trong giây phút hiện tại, và con biết con có thể làm hay hơn. Con sẽ vâng lời đức Thế Tôn thực tập quán vô thường, quán duyên khởi, quán không, quán tương tức, để chứng nghiệm được sâu sắc tính cách vô sinh bất diệt, không tới không đi, không có không không, không thường không đoạn của các pháp. Cửa vô sinh đã được Thế Tôn mở rộng, con chỉ cần theo lời chỉ dạy của Thế Tôn để đi vào.

Bạch đức Thế Tôn, mỗi biểu hiện trên trái đất, như một đám mây bay hay một chiếc lá rơi cũng đủ cho con thấy được tự tính không sinh không diệt, không có không không của thực tại mầu nhiệm. Đất Mẹ đã đưa con ra đời một lần thì đất Mẹ sẽ đưa con ra đời muôn vạn lần khác nữa. Mỗi lần con biểu hiện là một lần con trở thành mới tinh và con không cần sợ hãi lo âu về có không, còn mất, thêm bớt và dị đồng nữa. Con biết mục đích tối hậu của người tu là chứng nhập được vô sinh, thoát được vòng sinh tử để đạt tới tự do lớn.

Địa Xúc

Con xin cung kính lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn, bậc có trí giác chân thực và toàn diện, và trước Tôn giả Ca Chiên Diên để thực tập chánh tư duy và giải thoát khỏi sinh tử. (C)

Là một dòng sinh mạng tâm linh huyết thống

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con ý thức trong con về sự có mặt của dòng sinh mạng của tổ tiên và của con cháu. Các thế hệ tổ tiên tâm linh và huyết thống của con đang có mặt trong con, con là sự tiếp nối của liệt vị. Con không có một cái ta riêng biệt. Con đang thực tập buông bỏ tất cả những gì con nghĩ là con, là của con, để con có thể hòa nhập vào dòng sinh mạng ấy. Dòng sinh mạng ấy đang luân lưu trong con, con là dòng sinh mạng ấy mà không phải là một cái ta riêng lẻ.

Tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ tát,các vị thánh tăng và các vị tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc. Nhờ liệt vị mà con có được một ít vốn liếng của an lạc, tuệ giác và từ bi. Trong dòng tổ tiên tâm linh của con, có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi viên mãn, nhưng cũng có những vị mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi còn khiếm khuyết. Tuy nhiên con cúi đầu nhận chịu tất cả là tổ tiên tâm linh của con, vì chính trong con cũng có những yếu đuối, những khiếm khuyết về giới hạnh, trí tuệ và từ bi. Và cũng vì con biết trong con còn có những yếu đuối và khiếm khuyết ấy cho nên con mở lòng chấp nhận tất cả con cháu của con, trong đó có những người mà giới hạnh, trí tuệ và từ bi đáng cho con kính ngưỡng nhưng cũng có những người còn đang chật vật, khó khăn và trồi sụp không ngừng trên con đường tu đạo. Điều này cũng đúng về phương diện huyết thống. Con chấp nhận tất cả các vị tổ tiên huyết thống của con về cả hai phía nội ngoại với tất cả những đức độ, công hạnh và khiếm khuyết của các vị, cũng như con mở lòng chấp nhận tất cả các con cháu của con với những đức độ tài năng và khiếm khuyết của từng người. Tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống của con, cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của con, đều đang có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt, tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm.

Địa Xúc

Bạch đức Thế Tôn, cho con lạy xuống ba lạy để buông bỏ ý niệm rằng con là một thực tại biệt lập với tổ tiên, dòng họ và con cháu. Và cũng để buông bỏ những đau buồn phiền giận còn sót lại trong con. (C)

Là một với mọi loài

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang dàn trải trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi loài. Tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là những hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con là một với những người sinh ra đã có khuyết tật, hoặc vì chiến tranh, tai nạn hay ốm đau mà trở thành khuyết tật. Con là một với những người đang bị kẹt vào những tình trạng chiến tranh, áp bức và bóc lột. Con là một với những người chưa từng có hạnh phúc trong gia đình, không có gốc rễ, không có bình an trong tâm, đói khát hiểu biết, đói khát thương yêu, đang đi tìm một cái gì đẹp, thật và lành để bám víu vào và tin tưởng. Con là một với người đang hấp hối, sợ hãi không biết sẽ đi về đâu. Con là em bé sống trong nghèo khổ, tật bệnh, chân tay gầy ốm như những ống sậy, không có tương lai. Con là kẻ đang chế tạo bom đạn để bán cho các nước nghèo khổ.

Con là con ếch bơi trong hồ mà cũng là con rắn nước cần nuôi thân bằng thân ếch nhái. Con là con sâu con kiến mà cũng là con chim đang đi tìm kiếm con kiến con sâu. Con là cây rừng đang bị đốn ngã, là nước sông và không khí đang bị ô nhiễm, mà cũng là người đốn rừng và làm ô nhiễm không khí và nước sông. Con thấy con trong tất cả mọi loài và tất cả mọi loài trong con.

Con là một với những bậc đại nhân đã chứng được vô sinh, có thể nhìn những hiện tượng diệt sinh, hạnh phúc và khổ đau bằng con mắt trầm tĩnh. Con là một với những thiện tri thức hiện đang có mặt rải rác khắp nơi trên thế giới, có đủ bình an, hiểu biết và thương yêu, có khả năng tiếp xúc với những gì nhiệm mầu, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong sự sống, và cũng có thể ôm trọn thế gian này bằng trái tim thương yêu và hai cánh tay hành động của quý vị. Con là người có đủ an lạc và thảnh thơi, có thể hiến tặng sự không sợ hãi và niềm vui sống cho những sinh vật quanh mình. Con thấy con không hề đơn độc. Những bậc đại nhân hiện đang có mặt trên đời, tình thương và niềm vui sống của họ đang nâng đỡ con, không để con đắm chìm trong tuyệt vọng và giúp con sống đời sống của con một cách an vui, trọn vẹn và có ý nghĩa. Con thấy con trong tất cả các vị và tất cả các vị trong con.

Địa Xúc

Bạch đức Thế Tôn, con xin được lạy xuống ba lạy để được hội nhập với tất cả các vị Bồ tát lớn hiện đang có mặt, và để con có thể tiếp nhận năng lượng vĩ đại của quý vị. Và cũng để tiếp xúc với những đau khổ của mọi người mọi loài cho năng lượng từ bi được phát hiện và lớn lên trong con. (C)

Hình hài của con cũng chính là hình hài của Đất Mẹ

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, bây giờ đây mỗi khi giẫm chân trên đất Mẹ là con nhớ đến lời Ngài dạy rằng tâm và vật chẳng qua chỉ là hai ý niệm, chỉ là hai mặt của cùng một thực tại. Cây tùng kia không phải là vật chất bởi vì có cái biết trong nó. Hạt bụi kia không phải là vật chất bởi vì mỗi nguyên tử trong nó đều có sự thông minh, đều là những thực tại linh động. Khi con nhìn sâu vào lòng Đất con thấy sự có mặt của vầng thái dương, của hơi ấm, có khả năng làm cho vạn vật được sinh sôi nẩy nở. Hành tinh này sở dĩ xinh đẹp vì có hơi ấm của vầng thái dương. Con cũng thấy được những dòng nước mát lưu nhuận và cất giữ trong lòng đất. Nếu không có nước thì làm sao hành tinh này có được sự sống? Con cũng thấy được sự có mặt của gió, nghĩa là của các chất khí trong không gian như dưỡng khí, thán khí, khinh khí… nếu không có những chất khí ấy thì cũng không có sự sống của mọi loài và cũng không có những nét diễm lệ trên mặt đất như liễu xanh, trúc tím, hoa vàng. Con thấy khắp nơi bốn đại đang tương giao và tương tức, và con cũng nhận thấy bốn đại mầu nhiệm ấy đang tương giao và tương tức nơi con. Đất là một trong bốn đại nhưng đất ôm cả các đại khác trong lòng, bởi vì đất được làm bằng những yếu tố không phải là đất. Điều này cũng đúng với nước, với gió và với lửa. Một đại chứa đựng cả ba đại còn lại. Bốn đại cũng mang trong lòng của chúng thời gian, không gian và tâm thức. Bốn đại trong cơ thể con và bốn đại trong cơ thể của vũ trụ không phải là hai thực thể cách biệt. Tự tính của con cũng là tự tính của đất Mẹ. Tự tính của đất Mẹ cũng là tự tính của vũ trụ. Đó là tự tính tương tức, là không có không không, không sinh không diệt, không thêm không bớt, không vật không tâm, không trong không ngoài, không tới không đi.

Con xin lạy xuống, năm vóc sát đất để thấy con là một với đất Mẹ, là một với vầng thái dương, là một với sông hồ biển cả và mây trời bao la… Đất Mẹ sinh ra con, chuyên chở con và nuôi dưỡng con. Đất đã từng cho con biểu hiện cả triệu lần trong quá khứ thì Đất sẽ tiếp tục cho con biểu hiện nữa trong tương lai. Con đang có một hình hài tuyệt diệu do đất Mẹ ban cho, và hình hài của con cũng chính là hình hài của đất Mẹ. Con xin trở về nương tựa nơi đất Mẹ để thấy được tính vững chãi và bất hoại của con.

Địa Xúc

Con xin cúi đầu lạy xuống ba lạy trước đức Thế Tôn để buông bỏ ý niệm hình hài này là con, và để thấy được con cũng là một với đất Mẹ. (C)

Vượt thoát ý niệm về hình hài

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, con thấy được thân tứ đại này không đích thực là con, con không bị giới hạn trong hình hài này. Con là tất cả dòng sinh mạng tâm linh và huyết thống từ ngàn xưa liên tục diễn biến tới ngàn sau. Con là một với tổ tiên của con, con là một với con cháu của con. Con là sự sống biểu hiện dưới vô lượng hình thức. Con là một với mọi người và mọi loài, dù an lạc hay khổ đau, vô úy hay lo lắng. Con đang có mặt khắp nơi trong giờ phút này, và từ quá khứ cho tới tương lai. Sự tan rã của hình hài này không động được tới con, như một cánh hoa đào rơi không làm cho sự có mặt của cây hoa đào suy giảm. Con thấy con là một con sóng trên mặt đại dương. Con thấy con trong tất cả các con sóng khác và tất cả các con sóng khác trong con. Sự biểu hiện hay ẩn tàng của hình tướng con sóng không làm suy giảm sự có mặt của đại dương. Pháp thân và tuệ mạng của con không sinh mà cũng không diệt. Con thấy được sự có mặt của con trước khi hình hài này biểu hiện và sau khi hình hài này biến diệt. Con thấy được sự có mặt của con ngoài hình hài này, ngay trong giờ phút hiện tại. Khoảng thời gian tám chín mươi năm không phải là thọ mạng của con. Thọ mạng của con, cũng như của một chiếc lá hay của các vị Bụt Thế Tôn, là vô lượng. Con thấy con vượt thoát ý niệm con là một hình hài biệt lập với mọi biểu hiện khác của sự sống, trong thời gian cũng như trong không gian.

Địa Xúc

Con xin đức Thế Tôn cho con lạy xuống ba lạy để con thấy được tính vô sinh bất diệt của con, và buông bỏ được ý niệm con là một hình hài biệt lập với những biểu hiện của sự sống. (C)

Tiếp xúc với bản môn

Khải Bạch

Bạch đức Thế Tôn, trong những lúc tâm sự với đức Thế Tôn, con thường nghĩ đến hóa thân Thích Ca Mâu Ni của đức Thế Tôn hai ngàn sáu trăm năm về trước. Con biết đức Thế Tôn còn đó, dưới muôn ngàn hóa thân khác, và con cũng biết là đức Thế Tôn đang có mặt trong con, và con là sự tiếp nối của đức Thế Tôn, là một trong những hóa thân nhỏ bé của đức Thế Tôn. Nhờ được đức Thế Tôn mở mắt cho, con biết đức Thế Tôn không bị giới hạn bởi thời gian và không gian, và thọ mạng của đức Thế Tôn là vô lượng. Sinh diệt biến dị không động chạm được đến Thế Tôn, bởi vì Thế Tôn đã chứng đắc vô sinh. Con biết là nếu con tiếp xúc được tự tính vô sinh của con, thì con cũng thấy được rằng thọ mạng của con là vô lượng. Con cũng có thể cưỡi trên sóng sinh tử mà đi như các vị Bồ tát lớn, bởi vì khi đạt tới vô sinh thì sinh diệt biến dị cũng không còn động được tới con.

Bạch đức Thế Tôn, Ngài đã dạy rằng nếu chúng con tiếp xúc được sâu sắc với bất cứ một cái gì của thế giới tích môn, dù cho là một chiếc lá, một bông hoa, một đám mây, một con hạc, một dòng sông, một đỉnh núi hay chính hình hài của chúng con là chúng con đồng thời tiếp xúc được với bản môn ấy. Bản môn không phải là một cái gì tách ra khỏi tích môn. Trong thế giới của bản môn, không có sinh diệt, khổ vui, tới đi, thiện ác. Chúng con phải tập nhìn sự vật trong bản môn. Bản môn ấy là chân như, là pháp thân, là vượt ra ngoài những ý niệm có không, tâm vật, chủ thể đối tượng, nhân hay phi nhân. Nó luôn luôn chiếu sáng. Tiếp xúc với bản môn, chúng con sẽ có bình an và hạnh phúc. Chúng con không còn lo lắng và sợ hãi, như những con chim về được với trời mây hay những con nai thảnh thơi chạy nhảy ở đồng quê. Chúng con biết chúng con không cần phải đi tìm bản môn ở một nơi nào xa xôi, bởi vì bản môn ấy là tự tính đích thực của chúng con, có mặt trong chúng con ngay trong giây phút hiện tại. Thực tập chánh niệm, quán chiếu duyên khởi, thực chứng không và tương tức là chúng con có thể trở về bản môn bất cứ lúc nào.

Con xin hứa với đức Thế Tôn là con sẽ thực tập tinh chuyên, không vướng vào những lo tính và dự án thế gian để có thời gian và cơ hội thực tập. Con xin đức Thế Tôn chứng minh và yểm trợ cho con. Con xin lạy xuống để tạ ơn Ngài đã lắng nghe con, và đã nâng đỡ cho con trong thời gian thực tập.

Địa Xúc

Con xin lạy xuống ba lạy để tập tiếp xúc với đức Thế Tôn trong thọ mạng vô lượng của Ngài và cũng để tiếp xúc được với thọ mạng vô lượng của con. (C)