1.Như chim có hai cánh Thiền tập có chỉ, quán Hai cánh chim nương nhau Chỉ và quán song hành | 2.Chỉ là tập dừng lại Ðể nhận diện, tiếp xúc Nuôi dưỡng và trị liệu Lắng dịu và chú tâm |
3.Quán là tập nhìn sâu Vào bản chất năm uẩn Làm phát khởi tuệ giác Chuyển hóa mọi sầu đau | 4.Hơi thở và bước chân Chế tác nguồn chánh niệm Ðể nhận diện, tiếp xúc Với sự sống mầu nhiệm |
5.Làm lắng dịu thân, tâm Nuôi dưỡng và trị liệu Hộ trì được sáu căn Và duy trì chánh định | 6.Nhìn sâu vào thực tại Thấy tự tánh các pháp Quán giúp ta buông bỏ Mọi tìm cầu sợ hãi |
7.An trú trong hiện tại Chuyển hóa các tập khí Làm phát sanh tuệ giác Giải thoát mọi phiền não | 8.Vô thường là vô ngã Vô ngã là duyên sanh Là không, là giả danh Là trung đạo, tương tức |
9.Không, vô tướng, vô tác Giải tỏa mọi sầu đau Trong nhật dụng công phu Không kẹt vào lý giải | 10.Niết bàn là vô đắc Ðốn, tiệm không phải hai Chứng đạt sống thảnh thơi Ngay trong giờ hiện tại |
11.Các thiền kinh căn bản Như An Ban, Niệm Xứ Chỉ đường đi nước bước Chuyển hóa thân và tâm | 12.Các kinh luận Ðại Thừa Mở thêm nhiều cửa lớn Giúp ta thấy chiều sâu Của dòng thiền Nguyên Thỉ |
13.Như Lai và Tổ Sư Thiền chẳng nên cách biệt Bốn đế phải nương nhau Làm nền tảng truyền thừa | 14. Có tăng thân yểm trợ Thực tập dễ thành công Chí nguyện lớn độ sanh Lên đường mau thành tựu. |
Mười bốn bài kệ chỉ quán
Thể loại: Thi kệ